Hôm nay,  

Mẹ con

26/03/202310:24:00(Xem: 3976)
Truyện

hoathuytien

Ở Việt Nam, hồi xa xưa đó, cuộc sống giản dị nên rất ít nhà tư có mắc điện thoại, điện thoại công cộng đặt ở các bưu điện nhưng người dân ít quen sử dụng. Khi có việc cấp bách thì đánh điện tín. Ở công sở, trường học có trang bị điện thoại, nhưng thường chỉ có các sếp lớn gọi nhau đi họp hẹn hò cờ bạc hay hoạt náo cuối tuần.

 

Gần nhà chúng tôi, khu Lê Văn Duyệt ăn sang Nguyễn Thông, chẳng mấy tư gia có điện thoại, hồi đó cũng ít nhu cầu hơn ngày nay. Mỗi lần cần liên lạc với cha tôi đóng quân ở xa, ngoài vùng I chiến thuật, mẹ tôi thường dắt chúng tôi cùng đi lên căn cứ truyền tin trong tổng tham mưu, gần Tân Sơn Nhứt. Căn cứ truyền tin quân đội gồm mấy dẫy nhà tôn tiền chế, nhưng khá khang trang, nằm dựa bên hông chùa nghĩa trang Bắc Việt.

 

Mẹ tôi thích đi lễ chùa nghĩa trang Bắc Việt dù gia đình chưa có ai an nghỉ nơi đó. Mẹ tôi hình như có một chút đặc biệt, một chút kỳ thị ngây ngô, vì trong chùa hầu hết là người Bắc di cư, các thầy, các chú, các ni, các điệu cho đến các bà đến làm công quả trong chùa đều Bắc kỳ, cả những ngôi mộ nằm xúm xít xung quanh chùa, họ sung sướng, có lẽ thế, được tọa lạc dưới chân đức Địa Tạng Vương oai nghi độ lượng, ngẫu nhiên, họ cũng quê quán Bắc Kỳ, như cụ Đào Duy Anh. Cụ Chu Văn Mậu.

 

Mẹ tôi viện cớ chùa giống y như chùa ở ngoài kia, bà bảo gác chuông thật êm đềm, chùa đầy cây cao bóng cả, sân rộng lát gạch như gạch bát tràng. Đặc biệt trong sân chùa có hai cây hoa đại, trong Nam ta gọi là bông sứ, vàng và hồng thật lớn, cành bông sứ xòe rộng như hai cái tán, tận cùng bởi những túm lá gọn hơi  xòe ra y hệt những bàn tay cứu độ chúng sinh. Hoa sứ trang nghiêm thơm ngào ngạt, hai cây đại thụ đó đứng sừng sững đối diện nhau ngay bên cầu thang rộng lên xuống trước chánh điện làm tăng vẻ uy nghi cho chùa.

 

Mẹ tôi sùng đạo, quý thầy cô pha lẫn chút đỉnh mộng mơ, bà hay nói rằng mấy cây đại sân trước và nhất là mấy cây cau cao vút sau vườn chùa làm bà luôn nhớ đến cảnh chùa Long Giáng ở Bắc Ninh, « trong Hồn Bướm Mơ Tiên ». Ồ, mẹ tôi quên bẵng đi những vườn sắn sau chùa Long Giáng của chú Lan!

 

Chúng tôi sinh sau đẻ muộn, chúng tôi không biết gì nơi quê mẹ quê cha xa xôi ấy.

 

Chúng tôi chỉ thấy đơn giản là chùa nghĩa trang tương tế của thầy Trí Dũng sao mà giông giống cảnh bao quát chùa một cột trong bức tranh sơn mài ở nhà ông nội tôi quá sức, bức tranh ấy luôn treo trong phòng khách từ bao giờ trước khi tôi được sinh ra? Này nhé, có vài cây cau cao vút, lóng lánh cẩn ốc xà cừ. Cây cao vút vượt lên trên mái ngói, trên cả tầng gác chuông loang loáng mây ngũ sắc.

 

– Cây này cây gì vậy bà nội ? Tôi hỏi nội tôi. – Cây cau cao quá hả bà? Vậy quả cau có ăn được không, có ngon không bà?

 

– Ăn được, mà để cho các bà ăn trầu cau cho sạch miệng và chắc răng. Cau không phải trái cây như cam, quýt con à.

 

– Vậy hoa cau có ăn được không bà nội?

 

– Hoa cau rất đẹp, rất thơm, mà cũng không ăn được luôn, hoa cau để già trên cây rồi để các bà ăn trầu cau?

 

– Thế sao bà nói nhà mình vẫn nấu xôi hoa cau, chè hoa cau?

 

– Không, đó là xôi đậu xanh dãi vỏ, coi nó giống màu và đẹp như hoa cau thì gọi xôi hoa cau, chè hoa cau.

 

Chán thật, vậy là từ đó tôi không vấn đáp với nội tôi về cây cau nữa. Nhưng tôi vẫn nhìn lên tấm tranh sơn mài, mỗi lần sau giấc ngủ trưa từ bộ ván dầy kê đối diện tấm tranh. Tôi vẫn nhìn lên những túm lá cau, bẹ cau thì đúng hơn, vì thấp thoáng sau những cây cau, lại có những cây hoa sứ sang trọng xòe tàn lá lưa thưa trên ngọn, ồ, xen giữa cây cau và cây bông sứ là bóng trăng vàng ẩn hiện. Thì ra bóng trăng vàng là tụ điểm cho tôi ngắm. Sau giấc ngủ trưa hè mơ màng, chậm chạp, tôi luôn ngó xem bóng trăng sau chùa còn không? Còn đó, khi nào trăng cũng ở đó, lấp ló, ẩn hiện giữa những cành cây khẳng khiu loang loáng ánh xà cừ  như thiệt như mộng. Ồ, sao mà tất cả giống như một cái bánh dẻo trung thu thập cẩm, sực nức mùi hoa bưởi thơm ngon lạ lùng!

 

Thì ra chúng tôi là yêu chùa như nhau, dù mỗi người yêu một kiểu và có một tưởng tượng riêng. Mẹ tôi còn yêu chùa bằng kỷ niệm xa xưa từ thuở bà còn đi học, còn gạo bài thì dưới bóng mát, dưới tàn cây phượng già, đầy hoa phượng đỏ và ve sầu kêu râm ran những bản nhạc ngàn năm không đổi.

 

Rồi cứ mỗi lần lên Tân Sơn Nhứt, chúng tôi lại làm một lộ trình quen thuộc như nhạc ve sầu mùa hè. Việc đầu tiên là viếng chùa, hai chị em tôi luôn dừng lại nô đùa ở cửa tam quan, chúng tôi chơi đuổi bắt quanh ba ô cửa, leo lên leo xuống gác chuông cao, nghịch ngợm thả lá cây xuống đầu người qua lại, cũng không quên đánh đu bên những rễ cây bồ đề lâu năm, cây thả dây dài như dây thung, cây đa thì phải, đây là chỗ chơi đùa lý tưởng của lũ trẻ con tưởng không bao giờ chán. Mỗi đứa ôm một rẻo cây thật chắc chơi cái trò chơi Tarzan ồn ào hào hứng, vì mỗi đứa đu một kiểu, ngang, dọc, mạnh, yếu khác nhau.

 

Mẹ tôi khỏi quan tâm tới tụi tôi, bà băng ngang sân chính, ngó mông lung lên trời, hít thở hơi bông sứ một hồi rồi mới vào thắp nhang lễ Phật. Bao giờ bà cũng không quên ghé xuống nhà ngang, là nhà bếp, chào và thăm hỏi mọi người, vồn vã như một người vừa đi xa về, mẹ tôi tới đâu ồn ào tới đó. Ra khỏi chùa, bà ra lệnh quẹo sang trái, nương theo lối đi giữa hai hàng kẽm gai, đặc biệt nhà binh, kế bên bộ tổng tham mưu, quân lực Việt Nam Cộng Hòa. Chúng tôi vào nhà cậu Hàm, trong căn cứ truyền tin. Người lính gác quen mặt trên chòi cao vẫy tay cho chúng tôi đi thẳng. Mẹ tôi, theo thường lệ, đặt dưới chân lô cốt một túi quà nhỏ, có một ít lộc Phật, chuối và nửa đĩa xôi, vài trái mận đã se dạ. Còn một phần y vậy, mẹ bảo đem vào làm quà cho mợ Hàm. Cậu mợ Hàm đối với chúng tôi chỉ là họ hàng xa nhưng vì năng lui tới hóa thành thân, mẹ tôi muốn vào đây để gọi điện thoại cho bố tôi từ xa, từ vùng hỏa tuyến, Đà Nẵng, Cam Ranh và những nơi xa xôi vùng I chiến thuật.

 

Chúng tôi, tôi và em tôi, Tú và Tí, ưng tới đây để chọc hái trứng cá, ở đây những cây trứng cá sai quả chín mọng thơm ngon đầy cành mà có ai dễ gì tự do vào được  vùng quân sự này mà hái, nên chúng ra nhiều, đỏ ối, chín mọng, thơm và ngon ơi là ngon. Khi nào rồi cậu Hàm cũng hướng dẫn chúng tôi sau đó lên phòng truyền tin, ông có đầy máy móc và dây điện chằng chịt, quấn quýt. Quấn quýt nhiều lần phức tạp hơn những rễ cây đa cây bồ đề yêu quý của chúng tôi ở cửa tam quan chùa. Ông rất thiện nghệ, nghề của chàng mà, cởi chốt nọ, móc dây vào chốt kia, thay mầu dây ấn số, gọi tới, gọi lui, bao giờ ông cũng mở đầu bằng một câu quen thuộc : « Chào bằng an, bây giờ nói chuyện với bà xã nhé, vui ».

 

Mẹ tôi tiến tới, cầm điện thoại và bắt đầu nói, ôi sao bà nói lắm thế, nói hăng hơn cả lúc ở bên chùa nữa. Bà sung sướng nghe ra giọng chồng ở xa. Còn sống. Chẳng hiểu vì mệt hay cảm động, mặt hồng lên, mắt long lanh. Cũng có lúc bà gọi tụi tôi lại gần cho nói với bố mấy câu. Tôi nhận ra giọng của bố tôi ở xa rồi ở gần, thoang thoảng, thì ra cái điện thoại là như thế.

 

– Con Tú đấy à, em Tí đâu? Có nhận ra tiếng bố không ? Các con phải ngoan ngoãn học bài, các con có xuống thăm ông bà không?

 

Tôi đứng yên, tôi muốn trả lời, nhưng không biết phải làm sao.

 

– Nói vào đây, – mẹ tôi chỉ và nhắc. Tôi sợ và cố gắng ngập ngừng:

 

– Bố hả bố?

 

– Ừ, nói đi, bố nghe…

 

– Bố đang làm gì đấy ?

 

– Ơ, bố đang chờ nghe con nói…

 

Tôi mắc cỡ đặt ông nghe xuống, mẹ tôi và cậu mợ Hàm phì cười. Tôi không hiểu vội bỏ chạy! Cái thuở xa xưa, khi tôi còn nhỏ, ngô nghê và quê ơi là quê thì điện thoại là như thế đó.

 

Sau mấy chục năm sang Âu Châu, tôi biết cái điện lợi hại như thế nào và yêu quý nó là cái chắc. Mà ai cũng vậy, chẳng riêng gì chúng tôi. Chúng tôi mỗi đứa có cả lô, cả hàng chục bạn bè cần phải liên lạc với nhau luôn, chuyện bài vở, trường lớp, picnic, đại nhạc hội, v.v… toàn những chuyện phải nói lâu và nói nhiều. Mà khi chúng tôi nói điện thoại lâu thì mẹ chúng tôi làm hiệu giục thôi. Tôi vội xua xua tay, chỉ chỉ ra xa, ra hiệu là đầu dây bên kia kêu tới. Thế mà khi tôi vừa buông tay ra là mẹ tôi lên lớp ngay:

 

– Các con nói nhiều quá! – Bà quên là lúc xưa bà cũng nói còn nhiều  và lâu hơn tụi tôi. – Này, mẹ không phải trả tiền, thì đầu dây bên kia bác A bác B cũng phải trả thôi. Các con và bạn các con vô ý tứ lắm, ai trả tiền nhiều mà không tội. Làm ra đồng bạc không dễ đâu.

 

– Ơ… thế cái điện thoại thì ý mẹ để làm gì?

 

– Tối cần mới gọi nhau.

 

– Tụi con lúc nào cũng tối cần mẹ ạ.

 

– Hiện đại là hại điện đấy. Cuối tháng là tiền tăng là các con chia nhau trả cho nhà nước nhe.

 

Chúng tôi im lặng, chào thua. Mẹ tôi thêm ý:

 

– Mẹ ấy à, mẹ chỉ toàn điện thoại ở sở làm thôi. Để cho chủ nó trả, nhà nước trả.

 

Một ngày mùa đông, tối tôi ra ngoài điện thoại, ngày ấy còn điện thoại công cộng, nay thì lũ du côn đập phá nát hết rồi. Trời tháng mười, mùa đông, ở quê hương này, mùa đông của Anatole France hơi mờ mịt, tôi gặp chú tây hàng xóm cũng ra chờ điện thoại.

 

Tôi chào và vội hỏi:

 

– Nhà chú điện thoại trục trặc ư?

 

Ông hàng xóm trả lời rất thành thực:

 

– Không, mà tôi nói nhiều quá, tiền điện thoại tăng mau, Sandrine, vợ tôi mang trả nó cho bưu điện rồi.

 

– Chú để cho Sandrine tước quyền công dân dễ dàng vậy sao?

 

– Không nàng dễ thương lắm, nàng đã mua một cái hộp có khóa, khóa điện thoại ở trong, khi tôi cần, nàng mở cho tôi dùng, nhưng chỉ được nói trong mười phút thôi, lần nào tôi cũng nói quá hai mươi phút, có khi ba mươi phút… và vì vậy, thiếu tiền trả, giờ hết xài, thật là lỗi tại tôi.

 

Joël, chú hàng xóm tây nói một hơi dài, nhận tội thẳng thắn, không ngoan cố bướng bỉnh như tụi tôi. Vô lý thiệt. Sống phải nói với nhau chứ. Tôi và chú Joël đồng ý ở một điểm là sao nhà nước không bớt chi tiêu đi một khoản nào đó, để cho mọi người tự do điện thoại miễn phí dài dài.

 

Khi tôi vừa thò mặt vô nhà, đụng mẹ tôi ngay:

 

– Trời tối, lạnh, con đi ra ngoài chi vậy?

 

– Con cần gọi bạn con.

 

– Ra ngoài, tối, nguy hiểm lắm, lần sau nói ở nhà cũng được, nói vắn tắt, nhanh và gọn thôi con ạ.

 

Mẹ tôi thương, xót xa, ban lệnh mới.

 

– À, này, cứ như mẹ mà hay, mẹ toàn gọi điện thoại trong sở làm, tiện đủ cách.

 

– Sẽ có ngày chủ má sa thải má cho xem. – Tôi khẳng định.

 

– Ối trời, còn lâu mới đuổi được má, này nhé, sếp lớn thì ở xa lắc xa lơ, sếp nhỏ ngày nào cũng gọi đi lung tung, rất nhiều lần hơn cả chục nhân viên… đã bảo tiền của sở mà!

 

– Nhưng mà mẹ có sở làm tụi con có sở đâu? Hay cứ coi nhà này là một cái sở đi, tụi con làm việc cho sở má nhe?

 

Kỳ này bà ngồi im, chịu trận, không phản pháo nữa, giây lát trôi qua, thấy dễ thở, bà bồi hồi nhắc lại chuyện xa xưa, cũng vẫn bà, bà luôn thắng lợi hơn người khác:

 

– Này, cái hồi xửa xưa, còn ở Việt Nam ấy mà, má vẫn điện thoại miễn phí ở nhà cậu Hàm, ở trung tâm truyền tin của bộ tổng tham mưu, mới đó, đã gần nửa thế kỷ qua đi, các con còn nhớ không?

 

Rồi mẹ tôi ngồi im, hai tay xoa xoa mặt bàn, nét mặt có phảng phất nét đăm chiêu. Bất chợt, em tôi, Tí, nay đã lớn bộn, nó hớn hở tiến lại bên mẹ:

 

– Mẹ, mẹ khi nào cũng thích nói điện thoại không trả tiền, hồi đấy mẹ cũng làm quá, nhiều lần quá, nên ta thua, Việt Cộng nó thắng đó. Không chừng bây giờ, rồi tây cũng sắp thua… mà thua ai thì chưa biết, hay là thua Nga, thua Tầu, thua Arabe?

 

Mẹ tôi nhìn sững em tôi, hai mắt tròn xoe:

 

– Im đi, láo lếu vừa chứ, đừng có nói năng tào lao như vậy. Thua là có rất nhiều lý do, quân sự, chính trị, xã hội… nào có phải vì tí tẹo vậy mà mất nước. Khùng vừa thôi, con làm như mẹ ngớ ngẩn.

 

– Không, mẹ mà có khi nào ngớ ngẩn, thì mẹ vẫn chẳng nói một giọt nước nhỏ thêm làm tràn đầy một ly nước đầy… hay là nói như thầy vẫn giảng thì chắc mẹ chịu hơn… Này nhé, « nước mắt chúng sanh trong ba ngàn thế giới nhiều hơn nước trong bốn biển » rồi, chịu chưa ? « Tích tiểu thành đại » mà, câu này cũng mẹ hay nói! – Mẹ tôi đứng dậy, tôi tưởng mẹ đi kiếm cây chổi lông gà, nhưng không, bà vươn vai thở dài.

 

– Hai câu chuyện đó không ăn nhập gì với nhau cả, vô duyên… Mẹ mệt rồi, hai đứa ra chỗ khác, mẹ mệt, chấm dứt câu chuyện ở đây không còn gì bàn cãi nữa.

 

Nhưng chúng tôi vẫn ngồi im vây quanh cái bàn nhỏ kê trong góc bếp. Chúng tôi im lặng riêng tư nhìn vào khoảng không như gợi nhớ điều gì đã xa vời vợi. Thật ra lại gần tháng tư rồi, nhắc lại chuyện Việt Nam, vừa bực bội vừa buồn buồn. Thì đó có ai quên dễ dàng những chuyện của Việt Nam ngày mất nước. Kỷ niệm tuy thân thương, mà pha đầy gia vị cay cay, mặn mặn, đắng đắng. Dù đắng như trái khổ qua, người Việt Nam vẫn tìm cách dồn thịt, nấm, bún tầu vào hầm mà nuốt cho trôi, và cứ nghĩ là nó sẽ bổ dưỡng, mát gan, mát ruột. Cũng vậy, nhiều hình ảnh xa xưa chập chùng, chờn vờn mãi ttrong ký ức: những dẫy nhà tôn khang trang, căn phòng truyền tin Tân Sơn Nhứt trước 1975, một khoảng sân rộng bát ngát có nhiều vũng nước mưa đọng, nước trong veo, trong đến có thể soi gương được, thấy cả vùng trời mây xanh lơ trôi lãng đãng phản chiếu… phản chiếu in bóng cờ bay cờ bay… ngoài xa hơn, những cây hoa chuối hoa dong vàng, đỏ lươn tròn lươn tròn theo bờ tường làm bệ bao quanh cột cờ và ở đó, trên cao đó, thật cao, lá cờ quốc gia Việt Nam phất phới trong nắng, reo vui cùng gió lộng! Cờ vàng ba sọc đỏ.

 

Tất cả đã quá xa…

 

Xa như một vòng trái đất đã quay đi và cả một vòng thế kỷ, có khi nào vòng quay trở lại ở điểm khởi đầu?

 

– Chúc Thanh

(Cuối tháng ba, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chuyện ngày xưa, 1300 năm trước, xứ Hoa Hạ, tại một làng chuyên nghề chài lưới sống dọc hai bên bờ con sông Li, huyện Gullin, tỉnh Guangxi. Buổi chiều dần xuống êm đềm, mây mờ len lỏi giăng phủ ven lưng chừng núi, soi bóng xuống mặt sông tạo nên một bức tranh thủy mặc đẹp tuyệt vời pha chút nét sương khói mông lung; lão ngư phủ họ Tống phải chuẩn bị ít đồ ăn thức uống, và cả một ít thuốc hút cho chuyến đi săn cá đêm của mình...
Đứng trong hành lang phi trường Tân Sơn Nhất giây phút tiễn đưa cận kề thật não lòng, cả nhà cùng buồn, hai người ở lại tiễn hai người đi xa. Bà Tám cứ ôm riết thằng cháu nội đích tôn duy nhất trong tay, hết vuốt ve ngắm nghía nó từ đầu đến chân lại rưng rưng nước mắt hỏi cháu...
Mùa hè, trời cứ cao xanh, thăm thẳm, ong ong và chong chao cái nắng. Chỉ có mùa thu, bầu trời như xuống thấp hơn một cung bậc, và mây cứ từ đâu, đùn đẩy, xếp hàng, có khi chồng chất nhau thành những đụn mây với những màu sắc: trắng, xám, ánh vàng và có cả đen của màu... tóc làm nhung nhớ của một thời bịn rịn, với tóc mây (không phải tóc mai) thơm mùi bồ kết, hương nhu, thao thức hoài trong giấc ngủ...
Chúng ta “ăn để mà sống” hay “sống để mà ăn”? Tôi vẫn nghĩ rằng, mọi người đều phải trải qua cả hai giai đoạn kể trên, khi còn trẻ sung sức thì “sống để ăn”, và khi tuổi về xế chiều thì “ăn để sống”...
Ở nhà thường gọi là chị Xíu. Tên của chị là Lan Vy, chị họ của tôi. Chị em tôi chơi thân với nhau như chị em ruột. Tôi không có chị gái nên hình mẫu để tôi học hỏi chính là chị. Chị nổi tiếng xinh đẹp và hiền thục ngay từ lúc còn là nữ sinh đệ nhất...
Tôi đứng ngay tại Ngã Ba Hàm Rồng nhìn dáo dác chung quanh. Buổi trưa nắng chang chang. Thỉnh thoảng một cơn gió nổi lên cuốn theo những đám bụi đỏ mù trời. Tôi dụi mắt mấy lần cố tìm những gì thân quen của một quá khứ yêu dấu xa xưa...
Người Việt Nam chúng ta cũng có một bài thơ sống động mà có vẻ như ngôn ngữ của thi ca không thể nào diễn tả hết nét đẹp. Đó là những tứ thơ diễm lệ, đẫm đầy tình yêu và sự hào hùng của những người trẻ, những thủ lĩnh Việt Nam Quốc Dân Đảng, trong chuyến xe ra pháp trường Yên Bái ngày 17 tháng 6 năm 1930...
Tôi nhìn sững vào con bé đen (nên gọi là con bé hay là cô bé đây). Nó đang đứng nói chuyện với một người đàn ông Mỹ lớn tuổi, cũng đen như nó, ở trước cửa phòng ra vào khu tập thể dục. Con bé chừng mười bảy, mười tám tuổi là cùng, nước da đen cáy trông như một pho tượng đồng đen...
Tôi vốn mê đọc từ thuở còn rất nhỏ. Dĩ nhiên, mê bất cứ thứ gì cũng đều không tốt, vì nó sẽ hình thành một thứ nghiệp gì đó. Thêm nữa, chữ bao giờ cũng mơ hồ. Chữ là ký hiệu, là biểu tượng, là ngón tay chỉ trăng. Dù vậy, trong khi chữ là một hàng rào ngăn cách chúng ta với thực tại, chữ lại là một phương tiện để hiểu nhau, để cảm thông và để hoằng pháp.
Cách đường lớn có mấy mươi mét mà con hẻm 69/3/17 này là cả một thế giới khác. Chùa Ông Bổn nằm ngay ngã ba giao nhau của mấy con hẻm luôn, từ đây tỏa ra và chạy quanh quẹo sâu vô trong những xóm nhỏ khác nữa. Những con hẻm ở đây cả ngày chẳng có nắng giọi, chỉ trừ lúc giữa trưa, những ngôi nhà cao tầng bao quanh ở mặt tiền che chắn hết nắng trời. Cái không khí mát dịu hơn bên ngoài nhưng cũng rất ủm thủm ẩm thấp...
Chị Bông đi shopping về vội vàng lo sửa soạn bữa cơm chiều xong chợt nhớ ra hôm nay chồng sơn lại cái hàng rào patio nên ra vườn sau xem kết quả, chị tưởng tượng đến những hàng rào song sắt màu nâu mới mà lòng rộn ràng...
Tháng 10 năm 2019, tôi có tới bốn thân hữu của trên dưới sáu mươi năm quen biết, họ đã cùng nhau bỏ ra đi vào cõi vô cùng: Du Tử Lê, Nguyễn Tường Quý, Nguyễn Văn Trung và Trần Tuấn Kiệt. Thời gian ấy, tâm tư xáo trộn, thẫn thờ cả tháng. Chưa bao giờ tôi bị xúc động mạnh đến thế; và dĩ nhiên, chẳng có thể viết ra được một lời nào về họ!


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.