Hôm nay,  

Ông Anh

11/05/202307:49:00(Xem: 4849)
Tạp ghi

hoangquan
Nhà văn Song Thao & Nhà văn Hoàng Quân, Montréal, tháng Mười 2022.


Khoảng đầu thế kỷ 21, tôi quen ông Song Thao. Nói quen cho oai, chứ đấy chỉ là tình một chiều. Thuở ấy, mỗi khi có tờ nguyệt san Thế Kỷ 21 trên tay, tôi nhanh nhẹn dò mục lục, tìm bài Phiếm của ông Song Thao, đọc ngấu nghiến. Một ngày đẹp trời (ít nhất là đối với tôi), ông “thấy” tôi trên Diễn Đàn Thế Kỷ, ông hỏi ông chủ bút Phạm Phú Minh: “Hoàng Quân là ai?” Thế là tôi bắc được nhịp cầu tri âm với ông “trùm” Phiếm. Tự đó đến nay, tính ra đã gần chục rưỡi năm. Ban đầu, biết ông là người người sang, tên tuổi ngất trời, tôi không dám bắt quàng làm họ. Tôi quen ông qua anh Phạm Phú Minh. Biết ông trang lứa với anh Minh, nên tôi xin phép gọi ông bằng anh (cho công bình). Dần dà, thư đi, tin lại, tôi nghĩ đến ông như ông anh quý mến. Ông có rất nhiều bạn. Bạn “ảo” trên Facebook quây quần quanh ông lên đến gần bốn ngàn người. Số bạn ông trà đàm, tửu đàm bên bàn tròn văn chương dễ có đến vài trăm. Thế mà, giữa lúc say sưa chuyện trò với những bạn bè đồng thanh, đồng khí của ông trên vuông chiếu chữ nghĩa, ông chợt chú ý đến con bé Hoàng Quân lấp ló ngoài cổng hóng chuyện. Ông ân cần mở cửa cho con bé bước vào sân chơi.
     Tôi có cơ hội nhìn ông, nghe ông trong những cuộc phỏng vấn trên truyền hình hải ngoại. Còn nhân dáng của tôi đối với ông, chỉ là những dòng chữ đều đặn của font calibri hoặc arial trong điện thư và những bài viết tôi gửi đăng trên báo mạng. Thế mà, đã bao lần tôi được ông nhắc nhở, dìu dắt. Ông nghe tôi vất vả lúc làm cuốn sách đầu đời, ông mách nhỏ: “Hãy đến nhà xuất bản Nhân Ảnh.” Khi các ông Khánh Trường, Luân Hoán, Nguyễn Vy Khanh lên chương trình thực hiện bộ sách “44 Năm Văn Học Việt Nam Hải Ngoại (1975-2019)”, ông “tiến cử” tôi vào danh sách. Năm 2018, tôi ngạc nhiên và cảm động vô cùng, được ông cho một chỗ đứng trong mục “Viết Cho Bè Bạn”. Với bài điểm sách: “Đọc ‘Đứng Ngẩn Trông Vời’ của Hoàng Quân”, ông đã “nắm tay” tôi chu du khắp Gia Nã Đại, Mỹ và Úc, không chỉ trên các trang mạng văn học mà cả báo giấy. Chị Tiểu Thu (đồng hương Montréal của ông) xuýt xoa: “Em trúng số độc đắc đó nhe.” Bạn Phạm Công Luận bên Việt Nam nhận xét: “Anh Song Thao có vẻ quý trọng người viết qua trang văn.” Tôi nhớ có lần ông bảo, ông tính rủ tôi viết chung phiếm. Nghe ông nói vậy, tôi vui khấp khởi, mở cờ trong bụng. Nhưng ngẫm nghĩ, thuở tôi chưa biết đánh vần, ông đã làm báo, đã bắt đầu phiếm trong mục “Những điều trông thấy” trên những tờ tạp chí hàng đầu ngày ấy. Giờ đây, hơn nửa thế kỷ trôi qua, ông tung hoành, vẫy vùng trong cõi phiếm của ông. Nhìn ông, xét phận mình, tôi thấy hình ảnh đôi đũa mốc cời cố chòi mâm son lịch lãm. Thế mà, có lẽ do nghiện phiếm của ông, tôi rón rén viết thử bài phiếm. Tôi ấp úng, hỏi ông: “Giống phiếm chưa, cần thêm mắm muối gì nữa không?” Thì ông cười, khích lệ tinh thần (tôi đoán vậy): “Viết như vậy mà còn hỏi đã... phiếm chưa. Cứ... phiếm như vậy cho thiên hạ nhờ! Mắm bây giờ cũng leo thang, khỏi cần thêm thắt chi cho đỡ túi tiền.” Một đôi lần, tôi lề mề, đến hạn góp bài cho tạp chí Ngôn Ngữ. Tôi chạy hớt hải, sợ lỡ tàu. Đang lí nhí lời xin lỗi, thì nghe tiếng ông nhẹ nhàng: “Yên tâm, trước khi cài then, cũng ráng giữ cửa chờ cô em chứ.”
     Có thể ông xem những chuyện cỏn con này không đáng kể. Nhưng với tôi, tôi rất trân trọng sự ưu ái của ông dành cho tôi.
     Ông viết khỏe, viết hay, viết đẹp. Ngay cả đề tài “xấu xí” như dịch bệnh cũng trở nên dễ coi dưới ngòi viết của ông. Năm 2020, thời gian đầu đại dịch, tôi ngại xem, đọc tin tức, vì biết thêm chi tiết, càng thấy đen tối hơn. Nhưng loạt bài về dịch của ông, cho tôi thấy được ánh sáng cuối đường hầm. Lòng có lo lắng, hoang mang, mà đọc bài của ông tôi vẫn cười được, tinh thần bớt căng thẳng. Chuyện “già khú đế” thường thường rất khó nghe, mà qua giọng ông kể, cũng thành êm tai, dễ chịu. Trong bài viết về bệnh của mắt: cườm khô, cườm nước, khi ông liên tưởng đến mì khô, mì nước tôi đã cười ha ha một đỗi. Khôi hài đến như vậy, với tôi, quả là vô tiền khoáng hậu. Mỗi lần đi nhuộm tóc, tôi tủm tỉm cười một mình, vang vang trong tưởng tượng câu nói dí dỏm mà rất có duyên của ông: “Nhuộm tóc có thể bị dị ứng, nhưng không nhuộm, thì dị òm.”
     Nghe ông phiếm về món ăn, tôi vừa mừng, vừa lo. Mừng, được ăn uống hàm thụ, tha hồ thưởng thức của ngon vật lạ, món nóng, thổi phù phù cho mau nguội, món cay, hít hà, cứ tự nhiên gắp gắp, lùa lùa, không phải băn khoăn cao đường, cao muối, cao mỡ... Nhưng rồi tôi lại lo. Vì, ăn “ảo” xong, đầu óc cứ mơ mơ, màng màng được ăn thật. Mà những món ông kể, đâu phải chạy ra phố, ra chợ là có. Ông trầm trồ món bún chả Hà Nội, ông nhắc chuyện bún nay với ông Obama, rồi ông quay qua chuyện bún xưa của các ông Thạch Lam, Vũ Ngọc Phan, Vũ Bằng. Đọc tới đâu, ghiền tới đó. Ghiền mà không được ăn, khổ tâm lắm. Món “ta” ông nhem thèm đã đành, ông kể món “tây” cho độc giả thưởng thức nữa chứ: Tổ đường (Cabane à sucre), đọc mà thấy ngon nhức cả răng.
     Không biết ông có bao nhiêu nốt ruồi son ở bàn chân, mà năm châu bốn bể, dường như chỗ nào ông cũng “lang bạt”. Đến đâu, mắt ông ngó từng ngóc ngách, tai ông nghe từng tiếng động. Bởi thế, du lịch hàm thụ theo “dấu chân” của ông, thích thú vô cùng. Có những chốn tôi đã đi qua, nay nghe ông kể lại, tôi há hốc cả mồm: “Ủa! Chuyện này ngộ ghê. Ủa! Chỗ kia lạ thiệt...” Nơi nào chưa biết, nghe ông vẽ vời quá hấp dẫn, tôi ao ước được có ngày đến đấy, để thấy được những kỳ diệu của đất trời, của con người.
     Ông cho biết, truyện ngắn đầu tay của ông, truyện “Tiếng Nước Dội” đăng trên Thời Nay số 37, phát hành khoảng tháng 3 năm 1961. Tôi lẩm nhẩm tính, lúc đó ông vừa ngoài hai mươi. Eo ui, ổng nhẩn nha kể tiếng nước dội mà tôi hồi hộp, run run hỏi thầm: “Rồi sao nữa, rồi sao nữa?” Tôi thót tim mãi cho đến kết cục mới thở phào nhẹ nhõm. “Chàng cảm thấy vừa vui mừng vừa tiếc. Cái tiếc như vừa đánh rớt mất một vật gì. Βόng người con gái νừa đi đâu về vào cửa... Thành ngơ ngẩn nhìn theo.” Ô, kỳ vậy ta! Văn là người, người trẻ măng, nhưng văn đầu đời đã “già” rồi. Tôi viết email chúc mừng đứa con đầu lòng của ông, khen cháu quá  tra trắng. Ông hóm hỉnh trả lời: “Tác giả truyện này già từ khi ở trong bụng mẹ, nên không có tuổi trẻ. Già đáu!”
     Trong thế giới chữ nghĩa của ông, ông là người “đứng tuổi”. Ông bước vào tuổi văn lực sung mãn, rồi đứng luôn ở tuổi đó. Ông không già. Mà ông cũng từng nói: “Già đâu mà già! Tuổi chỉ là những con số.” Ngòi viết của ông vi vút trên mặt giấy, chính xác hơn là tay ông bấm rào rào trên bàn phím với tốc độ kinh hồn. Tự đó đến nay, ông đều đều cho những cháu bé tinh thần ra đời. Mùa Giáng Sinh năm 2004, ông sanh bé Phiếm đầu lòng: Phiếm 1. Thế mà tháng Hai năm nay, năm 2023, thêm một cháu bé khôi ngô chào đời: Phiếm 29. Tôi nhíu mày, nhăn trán cọng trừ nhân chia. Thế ra, ông không những sanh con năm một, mà có nhiều năm ông sanh đôi nữa kia.
     Trong chuyến cưỡi ngựa xem lá mùa thu Canada năm 2022, tôi xé lẻ đoàn du lịch từ Đức, hẹn gặp anh Song Thao ở Montréal. Tôi không xài điện thoại ở Canada, chỉ liên lạc với anh qua viber mỗi khi có mạng. Các du khách Đức có hai giờ đồng hồ để vào thăm trong Nhà thờ Đức Bà. Tôi bồn chồn đi tới, đi lui trước Nhà thờ chờ anh. Ngày thu trời đẹp, người qua kẻ lại nườm nượp. Tôi lo, mình không thấy anh, hoặc anh thấy, mà không nhận ra tôi. Cuối cùng, không bõ công tôi lóng ngóng, tôi được gặp không những anh Song Thao mà cả chị Diệu Hương. Gặp anh chị lần đầu, mà tôi cảm thấy như quen, như thân. Tôi liên tưởng đến câu thơ thi sĩ Luân Hoán vẽ anh chị:
 
Diệu Hương thoang thoảng diệu hương
Bên ông một chữ trăm phương phiếm thần
 
Giọng Huế của chị ngọt ngào. Giọng Bắc của anh du dương. Ôi, tuyệt vời, đào rất Huế, kép thật Bắc. Tôi không kịp thì giờ vào trong nhà thờ để chiêm ngưỡng kiến trúc độc đáo, chạm khắc tinh xảo. Không hề chi. Cuộc gặp gỡ chớp nhoáng với anh chị Song Thao đã làm chuyến đi ngắm thu vàng ở Canada của tôi đáng nhớ hơn. 
     Ông anh Song Thao ơi.
     Có nhiều người gọi anh là vua phiếm, trùm phiếm, phiếm chủ... Em thấy “tước vị” nào cũng đúng cả. Với em, hơn thế nữa, anh là ông anh, tuy xa mà gần, em rất mực quý mến. Những món quà tinh thần anh tặng là những nguồn vui lấp lánh trong tâm hồn em. Em vẫn muốn nói đi, nói lại lời cám ơn. Cám ơn anh thật nhiều. Hy vọng ông anh sẽ không mắng: “Cái cô em này, sao bày vẽ quá. Anh hiểu rồi.” 

 

-- Hoàng Quân

(Tháng Tư, 2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con bé yêu mẹ nó. Cứ vài ngày lại điện thoại hỏi mẹ có khỏe không. Bao giờ cũng vậy, cuộc thẩm vấn trên điện thoại với mẹ xoay quanh những câu đại loại như mẹ có bị sốt không, có bị ho không, có mệt mỏi không, có ngửi mùi thức ăn được không, có gặp người nào bị bệnh Covid không. Toàn bộ những câu mà người ta thường hỏi khi khách hàng bước chân vào một cửa tiệm trong mùa giãn cách cơn đại dịch. Ông không muốn con gái nghĩ bố bỏ mẹ ở nhà vì mẹ bị cách ly sau khi có những triệu chứng vừa kể. Nó muốn chắc ăn là cả bố lẫn mẹ không ai bị nhiễm Covid hết.
Những ngày gần cuối năm, chúng tôi nhận một ngôi nhà “mới” (của mình và “cũ” của người ta) không có đồ đạc và cần sắm sửa một vài thứ căn bản. Đồ mới, đồ đẹp thì ai lại không mê, nhưng ngặt nỗi đâu phải cái gì thích cũng đều có khả năng mua mới. Quần áo giày dép nào thích có khi còn nán đợi sale giảm giá vài ba lần mới mua, huống hồ những thứ đồ lớn với giá tiền gấp cả trăm lần… Phải thực tế và biết mình hỏng phải “First Daughter” (con gái lớn của tổng thống) mà là con gái lớn của cái anh Hai Lúa nhà kia từng làm việc ở tiệm Thrift Store (tiệm bán đồ của mấy nhà dư giả “biếu”). Đã 10 giờ tối, nằm trong túi ngủ (sleeping bag) trải trên sàn nhà (vì chưa có giường), tụi tôi “đi dạo” trên mạng xem có ai trong vùng rao bán gì hấp dẫn không. Có một quảng cáo chỉ vừa mới đăng chừng 5 phút rất ngắn gọn: “Bộ bàn ăn 8 ghế gỗ và da – giá $395, bán bởi chủ nhà”. Nhìn hình kèm lời quảng cáo phải nói là có cảm tình liền. Nguyên bộ bàn nhìn rất chắc và rất đẹp. Có vẻ là đồ “hiệu” thiết k
Người Việt chúng mình tại Mỹ hình như có cơ hội ăn “thiệt” và tiệc tùng trong năm nhiều hơn dân bản xứ, vì ngoài các ngày lễ bình thường, mà quan trọng nhất là các lễ Chiến Sĩ Trận Vong, Độc Lập, Tạ Ơn, Giáng Sinh, Tết Dương Lịch, còn có Tết Âm Lịch – bây giờ xin sửa lại như sau: Tháng 12 là tháng ăn chơi, Tháng Giêng cũng lại chơi với ăn đều đều, Tháng Hai thì Hội với Hè - đó là chưa kể đến các ngày lễ không kém phần quan trọng cho cộng đồng người Việt tỵ nạn như ngày Lễ Phật Đản, kỷ niệm Mất Nước 30 tháng 4, ngày Quân Lực VNCH… cùng các ngày kỵ giổ của từng gia đình, đại gia đình, và các đại hội của từng quân binh chủng, từng hội đoàn, từng hội thân hữu … Nhìn về những cái Tết khi còn ở quê nhà, Tết là một ngày lễ quan trọng duy nhất cho mọi người, mọi gia đình, cho cả nước. Bởi vậy có những năm Mẹ tôi được chính phủ cho thêm lương tháng 13. Người lớn rộn ràng sửa soạn Tết theo cách người lớn, tỉ mỉ, chuẩn bị trước cả tháng. Con nít chúng tôi có những náo nức riêng. Nhà nhà đều ăn
Tết càng cận kề, từ làng trên xuống xóm dưới, mọi người càng chộn rộn lo đủ thứ, y như cả năm chưa đủ lu bu vậy. Nhà bà hội đồng thì khỏi nói. Song le, năm nay bà hội đồng lại bận bịu một cách khác. Số là giữa bà và cậu Hai Đức đang có chuyện gây cấn. Sẵn dịp xuân về, bà muốn mời cô Tư Nhung qua nhà chơi vào ngày mùng hai Tết.
Nhớ, những năm mấy chị em còn nhỏ, có lần được Ba chở bằng xe vespa, ra tận Vũng Tàu. Trên đường đi, Ba ghé một khu rừng nào đó, đậu xe, đem theo cây dao, vào sâu trong rừng để tìm mấy cội mai. Ba chặt vài nhánh, chở về nhà. Lại nhớ, Ba cặm cụi tỉa nhánh, lặt lá, những cành có rất nhiều nụ. Ba ngâm mấy nhánh mai trong chậu nước lạnh để hãm nụ. Sau đó, cận cuối năm, Ba sẽ ngâm những nhánh mai chi chít nụ vào thau nước nóng, để sang giờ khắc giao thừa, những nụ mai bừng nở, vàng tươi cả bàn thờ, rực rỡ trên bàn phòng khách, mang điềm may mắn suốt năm. Mai vàng khoe sắc cùng mấy chậu cúc vàng, vạn thọ màu cam tươi, mồng gà đỏ rực, màu và sắc Tết trong gia đình Tím ngày xưa.
Nó đâu có biết rằng, tiếng hô bài chòi, hô lô tô, tiếng pháo giao thừa, âm thanh sôi nổi của hội xuân, hình ảnh hoa quả bánh mức, hình ảnh ngôi chùa quê với ông thầy hiền như Bụt ấy in sâu vào tâm khảm nó. Mà đâu chỉ có thế, hình ảnh bộ lư đồng sáng choang, ngọn đèn hột vịt leo lét trên bàn thờ cũng nạm vào hồn của nó.
Ngày xưa, người ta nhớ tới Ông Đồ Già mỗi lần Tết đến, ngày nay mình nhớ mấy cái YouTube của những nhóm sinh viên ở Sài-Gòn, tụ lại với nhau nấu bánh chưng bánh tét rồi đêm đến đem phân phát cho những người không nhà không cửa sống lây lất trên vĩa hè. Thấy người nào cũng vui, cũng đẹp và gói bánh cực kỳ giỏi. Chỉ mong một ngày nào về cùng gói bánh với họ, rồi theo họ đi “giao hàng”. Mình không biết gói bánh tét nhưng chắc học cũng mau thôi vì đã có “căn bản” rồi. Và chắc là sẽ rất “vui”.
Dường như tôi không hợp lắm với không khí gia đình, nhất là cảnh gia đình xum họp hay đầm ấm. Ngay lúc thiếu thời, vào những chiều giáp Tết, thay vì quanh quẩn ở nhà – phụ cha lau chùi lư hương; giúp mẹ bầy biện mâm cơm cúng cuối năm – tôi hay lặng lẽ tìm lên một ngọn đồi cao nào đó (lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang) với tâm cảm của một … kẻ giang hồ, đang trên bước đường phiêu bạt.
Tiếng chó sủa râm ran từ những căn nhà quanh xóm nghe ăng ẳng, tiếng quang quác của lũ gà kiểng ở trong vườn vọng vào làm cho Mike cảm thấy khó chịu, gấp trang sách laị, Mike cầm cây đèn pin ra vườn xem xét. Vườn khuya tịch mịch, bóng trăng rơi trên tàng cây khóm lá, tạo ra những mảng tranh tối tranh sáng khắp khu vườn.
Bà được cho biết thỉnh thoảng, cô bé 4 tuổi thức giấc, nhìn quanh, nhận ra bốn bức tường trắng của bệnh viện rất lạ lẫm, không phải là không gian nhà mình, lại không thấy cha mẹ và chị, Stella hoảng sợ, bật khóc. Nhưng đó là một tín hiệu tốt, vì Coronavirus không kịp tấn công vào thần kinh, và não bộ của em.
Nhưng tình thương của con sư tử này khác hẳn. Nó lớn lao quá. Nó hoàn toàn vị tha, bất vụ lợi. Một thứ tình thương nhuốm đầy đau thương, xót xa, bi tráng. Một thứ tình thương bất chấp cả đe dọa của Thần Chết. Đây là một trường hợp hiếm hoi, hay vẫn xẩy ra trong rừng sâu mà ta không hề biết đến. Dù gì đi nữa, người ta cũng nên suy nghĩ lại khi dùng câu nói “đồ lòng lang dạ thú” như một lời mắng nhiếc quen miệng. Và cũng nên tự hỏi phải chăng bản tính của con sư tử còn “thiện” hơn tính tình con người nhiều. Hay chí ít cũng “thiện” hơn tôi.
Nhưng Boncuk vẫn đứng yên nghiêm chỉnh nhìn vào cửa bệnh viện, mắt dõi theo hướng cái xe lăn đẩy ông Senturk về phòng. Nhân viên bệnh viện cảm mến lòng trung thành của con chó, để nước uống và thức ăn cho Boncuk. Rất từ tốn, và quý phái kiểu động vật bốn chân, Boncuk chỉ liếm láp khi nào cần "recharge" năng lượng. Cứ như thế, khoảng hai tuần sau, nhờ sự chăm sóc chu đáo của bệnh viện, nhờ ý chí bám vào sự sống của ông Senturk, và có lẽ nhờ cả lòng trung thành của Boncuk, ông Senturk bình phục và được xuất viện trong sự vui mừng khôn tả của con chó.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.