Hôm nay,  

Cô Mười

01/08/202313:10:00(Xem: 4238)
Truyện

cheo do

Ông Hương Cả làng Ngọc Thạnh nổi tiếng mát tay, tuy là chức sắc trong làng nhưng người làng ít kêu ông là ông Hương Cả mà họ kêu là thầy Hai. Thầy Hai bốc thuốc Nam rất hiệu nghiệm, ai bị bệnh gì cũng tìm tới thầy Hai. Thầy Hai xem mạch và bốc thuốc làm phước chứ chẳng phải lấy tiền.
    Thầy Hai có đến chín người con nhưng không hiểu sao người làng chỉ nhắc đến bốn người sau cùng mà ít khi nói về mấy người con lớn, có lẽ bốn người sau có nhiều cá tánh hơn chăng? Cô Sáu Bụng có ngón nghề làm tương chao ngon bá cháy, tiếng đồn khắp nơi. Tương cô Sáu ngon, rền, béo, thơm, đậm đà hương vị… Người làng gần xa và các tổng khác đều ghiền, không chỉ người ăn chay mà người ăn mặn cũng thích, bữa cơm mà thiếu chén tương là mất ngon. Người kế là cậu Bảy Tiệm, cậu có tài kinh doanh, mùa mía mua đường, mùa lúa trữ thóc. Đường cậu bảy bán ra tận Hải Phòng, vô Sài Gòn, lên Nam Vang, vì thế mà cậu Bảy giàu có nhất vùng, là tài chủ của địa phương. Cậu Tám Tòng thì lại học ngón nghề bốc thuốc xem mạch của ông Hương Cả. Người làng Ngọc Thạnh, Thanh Huy, Đại Hội, gần xa đều rước cậu Tám đi xem mạch. Người con gái út là cô Mười, Thầy Hai cưng cô Mười lắm, muốn gì cũng chìu, dành hết tình thương cho cô Mười. Mà kể cũng lạ, cô Mười hổng giống mấy anh chị mình. Cậu Bảy, cậu Tám cao dong dỏng, da trắng, thanh tú, trong khi ấy cô Mười lại da ngăm ngăm, tướng đậm thấp và chắc nụi. Tuy là con gái út nhưng cô Mười rất cứng rắn, tháo vát chứ hổng có ủy mị, nũng nịu, yểu điệu như những cô con gái út khác. Cô Mười không thích học chữ Nho hay chữ quốc ngữ, ông Hương Cả cố ép nhưng cổ chỉ học qua loa lấy lệ, Cô Mười thích học võ, đi quyền, suốt ngày chạy nhảy rong chơi với bọn con trai nhà ông Ba Tá, Bốn Sự. Thằng Hân lớn nhất trong đám, nó còn dạy cô Mười tập chạy xe thổ mộ, có lần Cô Mười quất roi mạnh quá, lại giật dây cương sai nhịp khiến con ngựa  kéo cả cái xe chạy xuống ruộng lúa đầu đình Ngọc Thạnh luôn, bữa đó anh Hân bị ông Ba Tá oánh một trận và còn bị cấm leo lên xe thổ mộ. Cô Mười cũng bị thầy Hai rầy một trận nhưng rồi đâu cũng vào đó, chuyện cũng êm xuôi như bao chuyện khác đã xảy ra. Thầy Hai nói:
    – Con gái con đứa gì mà cứ nhồng nhỗng như con trai, ai dám rước về làm dâu?
    Cô Mười cười hô hố:
    – Con hổng làm dâu ai hết, ở nhà với tía thôi!
    Thầy Hai nhìn cô Mười cười và lắc đầu:
    – Con gái hổng gả để làm mắm hả?
    – Con hổng thèm làm dâu ai hết, mai kia tía già con lo cho tía!
    – Thôi khỏi, con lo cho con trước đi nha! Ý tứ, thùy mị một chút để rồi tía kiếm mối cho con! Con gái có một thời, bông búp hổng bán bông tàn bán ai mua? Mà tía thấy thằng Hân con nhà Ba Tá cũng được lắm.
    Cô Mười cười nghặt nghẽo, anh Hân là bạn ruột của cô Mười, tự dưng tía nhắc tới làm cho cô Mười vui hẳn lên. Anh Hân tướng người cũng rắn chắc, đậm thấp và rất tháo vát, tánh tình thì rất ăn rơ với cô Mười, hồi nào giờ cứ kêu ông với bà chứ chẳng chịu xưng anh em gì hết ráo, mặc dù anh Hân lớn hơn cô Mười cả mươi tuổi. Hai Hân và cô Mười có nghe loáng thoáng là thầy Hai và ông Ba Tá có hứa làm sui, nhiều người cũng đồn vậy và cặp đôi, tuy nhiên anh Hân và cô Mười vẫn cứ tỉnh như ruồi, chẳng coi chuyện đó có gờ ram nào hết. Bữa kia cô Mười kêu anh hai Hân lại:
    – Ông có biết gì không? Tía tui muốn làm sui với tía ông đó!
    Anh Hai Hân cười cười:
    – Vậy bà dzìa làm dzợ tui.
    Cô Mười xí một cái dài cả cây số:
    – Xí, ai mà thèm làm dzợ ông, mà tui cũng hổng muốn làm dzợ ai hết.
    – Vậy bà muốn ở giá sao?
    – Tui hổng biết nhưng giờ tui chưa tính.
    – Bà tính được gì? Tía bà tính cho bà.
    – Bộ ông hổng sợ người ta cười “chuột sa hũ nếp” hả?
    – Bà nghĩ chỉ có nhà thầy Hai giàu? đừng quên nhà ông Ba Tá cũng là cự phú trong làng này à nha!
    – Ông thương thầm tui hả? Sao coi bộ khoái cái chuyện hứa làm sui của hai khứa lão vậy?
    – Thương gì bà? Tía nói lấy ai thì lấy đại vậy thôi!
    Tuy nói vậy nhưng ánh mắt và cử chỉ của Hai Hân thì khác, người tinh ý sẽ thấy Hai Hân có tình ý thương thầm cô Mười. Đi chơi đâu cũng phải có cô Mười, chuyện gì cũng cho cô Mười là nhứt, chỉ cô Mười đánh võ đi quyền, luôn bảo vệ cô Mười, khen cô Mười này nọ. Có lần cô Mười cũng nghi ngờ Hai Hân nên cảnh cáo:
    – Tui với ông là bạn trong làng, hổng có thương gì hết ráo à nha!
    Hai Hân cười cầu tài:
    – Cô Mười muốn sao cũng được.
    Hai người vẫn cứ ông bà như hồi nào vậy, cứ nhông nhổng trong làng như còn con nít chứ chưa đủ tuổi lớn. Tuy vậy người làng Ngọc Thạnh vẫn cứ đồn rân cả lên chuyện hứa hôn, người thì nói hai đứa đó hợp rơ ăn ý lấy nhau sẽ thuận vợ thuận chồng, cũng có người lại nói gièm: “Cô Mười tánh đàn ông, chắc gì sống hạnh phúc?”, v.v.
 
***
 
Tháng chạp năm Giáp Dần, cả làng Ngọc Thạnh râm ran bàn tán chuyện thầy Hai gả cô Mười cho anh Hai Hân con nhà ông Ba Tá. Hổng biết thầy Hai có ép uổng gì không hay chỉ thuyết phục giỏi mà không thấy cô Mười cự lại. Cô Mười vẫn như mọi ngày, chẳng có vẻ gì là sắp về làm dâu nhà ông Ba Tá. Ngày cưới, thầy Hai mặc áo dài xanh đậm chữ thọ, khăn đóng, giày Gia Định đưa cô Mười sang nhà Ba Tá để làm dâu. Cô Mười mặc áo dài hồng, đội khăn vành vàng có mạng lưới trắng phủ xuống mặt, cũng má phấn môi son nên trông khác hẳn mọi ngày. Bà con trong làng chạy theo coi quá trời, người này chỉ trỏ, người kia chen lấn nhìn cô Mười làm cô dâu. Ai đó nói oang oang:
    – Cô Mười mặc áo cô dâu cũng đẹp quá nha!
    Tụi con nít bu quanh cứ rần rật chờ pháo nhà ông Ba Tá nổ. Hai Hân đi bên cạnh cô Mười vừa mắc cỡ vừa sung sướng cứ cười cười tủm tỉm, vẻ mặt rất là hãnh diện với mọi người. Tiệc cưới linh đình, kéo dài từ trưa cho tới tận mười giờ đêm, nhạc xập xình rộn cả đầu trên xóm dưới. Hai Hân tì tì nốc cạn rượu mời, rượu phạt, rượu mừng, rượu mớn. Hai Hân tửu lượng có cao nhưng uống cỡ đó thì cũng lè nhè say. Khách khứa chẳng cần biết đêm nay Hai Hân có động phòng nổi hay không, cứ mời lên ly liên tục.
    Ba ngày sau Hai Hân lại đưa cô Mười hồi dâu đặng chào và cảm ơn ông Hương Cả, giờ là tía vợ rồi! Cô Mười sau cưới vẫn vậy, gỡ hết áo xống phấn son xuống thì cô dâu lại hiện nguyên là cô Mười, chẳng có chút gì thay đổi, vẫn cứ ông ông bà bà mà chẳng chịu xưng em như người ta. Hai Hân thì giờ cũng có lúc biết kêu cô Mười là em nhưng phần nhiều vẫn là bà, ấy vậy mà chữ bà của Hai Hân nó ngọt lắm nha, nó tình sao ấy. Bà Tư Lượm phàn nàn:
    – Con gái con đứa gì mà ăn nói thô quá, hai vợ chồng bay y hệt nhau, sao hổng kêu anh em cho nó tình mà cứ ông ông bà bà như hồi chưa cưới!
    Nói thì nói vậy thôi chứ bà Tư Lượm biết cô Mười từ hồi còn con nít. Bà không bằng lòng việc ông Ba Tá hứa làm sui với thầy Hai, tuy nhiên mọi việc trong nhà đều nhất nhất do Ba Tá xếp đặt. Ông đã quyết thì bà Tư Lượm cũng phải chịu thôi. Người ta nói ai có tiền thì người ấy nắm quyền. Bà Tư Lượm về làm vợ Ba Tá cũng là do sự xếp đặt của chính ông. Vợ ông mất sớm, ông thấy nhà Sáu Lầu có cô con gái lớn khá xinh nhưng chưa thấy ai dạm hỏi. Ba Tá nhờ mai mối tới lui vài bận thì Sáu Lầu gả cô Tư Lượm cho Ba Tá. Cô Tư Lượm về làm vợ Ba Tá sướng quá trời, hổng phải làm lụng khổ sở như ở nhà mình. Ba Tá cũng thương Tư Lượm nhưng mọi việc trong nhà Ba Tá quản lý hết.
    Bà Tư Lượm cũng không ghét gì cô Mười nhưng mẹ chồng nàng dâu đôi khi cũng có lời qua tiếng lại, Cô Mười thì tánh tình không được dịu dàng chi mấy, thậm chí còn rất ngang ngay sổ thẳng nên bà Tư Lượm cũng không vừa ý. Có lần bà Tư Lượm sai cô Mười đem rổ trứng gà ra chợ bà Bâu bán, cô Mười đi thẳng ra cống ông Bổn đổ hết cả rổ trứng gà xuống mương rồi về. Bà Tư Lượm hỏi tiền đâu thì cô Mười nói té mương nên trứng trôi hết rồi. Bà Tư Lượm tức tối la lối ầm ĩ khiến Hai Hân biết chuyện:
    – Sao em đổ hết trứng gà của má?
    – Má biểu đi bán nhưng cục tức chẹn ngang cổ, thở hổng nổi, tui đổ hết rổ trứng xuống cống ông Bổn vậy mà giờ tan cục tức, nhẹ gì đâu á!
    Hai Hân cười như mếu:
    – Vậy mà sao hồi đó tui thương bà được, thiệt là hổng hiểu nổi?
    Cô Mười đáp:
    – Hối hận phải hôn? Nếu hết thương thì tui dzìa nhà tía tui!
    Hai Hân không trả lời mà quay lưng bước đi một mạch.
    Cuối năm Bính Thìn, Bảy Tiệm trúng mánh, đường bán giá cao lời khẳm luôn. Bảy Tiệm thương cô Mười, cho cô Mười món tiền lớn. Cô Mười ra chợ bà Bâu mua cho bà Tư Lượm xấp lãnh Mỹ A hảo hạng, ông Ba Tá cái mục kỉnh mới, hàng tây chính hiệu, Hai Hân bộ đồ tây vừa vặn đẹp hết sẩy. Mấy bà hàng xén chợ bà Bâu khen:
    – Cô Mười thô tháo vậy chứ cũng tình nghĩa quá trời, coi người đừng có nhìn bề ngoài à nha!
    Ăn ở nhau có mấy mặt con, Hai Hân đổi tánh, từ thô tháo tự dưng yêu đương lãng mạn, cặp bồ với cô Hai Sự, Hai Sự nhan sắc cũng chẳng hơn gì cô Mười nhưng được cái hiền lành và ngọt ngào. Hai Sự là gái quá lứa mà chưa có ai rước nên Hai Hân mới có cơ hội thậm thụt tới lui. Làng xóm cứ xì xào bàn tán, cô Mười cũng nghe phong phanh nhưng không nghĩ rằng Hai Hân có mèo. Thế rồi Hai Sự có bầu. Giờ thì người Làng Ngọc Thạnh, Thanh Huy, Mỹ Điền, Quy Hội, Quán Cẩm… cười nói bàn tán dữ lắm, ai cũng tưởng phen này cô Mười sẽ làm ầm ĩ lên, sẽ đánh ghen, vì tánh cô Mười xưa nay nổi tiếng nóng như lửa rơm. Nào ngờ cô Mười im lặng, chẳng đá động gì, không làm gì cả, ngay cả một lời chửi rủa cũng không. Người ta ngạc nhiên lắm, càng thêm tò mò, càng thêm pha mắm giặm muối vào câu chuyện. Bà Năm Ròm léo nhéo với mấy bà khác trong làng:
    – Đến nước này thì ông Phật cũng giận chứ đừng nói chi người, ấy vậy mà sao con Mười nó im ru vậy ta?
    Mấy bà bàn tán mổ xẻ câu chuyện, suy đoán lung tung nhưng chẳng ai cắt nghĩa được sao cô Mười im lặng trong khi bản tánh cô Mười rất nóng và thô tháo. Mấy ông sồn sồn trong làng khi uống vài ba xị đế cũng đem chuyện cô Mười ra cười cợt. Ông Bảy Thà nói:
    – Tại cô Mười thô tháo nên thằng Hân mới đi tìm người nhẹ nhàng dịu hiền.
    Ông Mười Thập ngửa cổ làm cái ót chung rượu, nêu thắc mắc:
    – Người như cô Mười lẽ ra sẽ ghen lồng lộn, đánh ghen dữ lắm mới phải, sao đằng này lại im ru vậy cà?
    Ông Chín Cửu gắp cái phao câu trầy trật bèn bỏ đũa lấy tay cầm cạp ngon lành, miệng còn dính mỡ nhầy nhụa nói:
    – Ở đời nhiều khi thấy vậy nhưng không phải vậy, khi đụng chuyện mới biết bản chất thật con người. Cô Mười thô tháo tưởng tánh đàn ông nào ngờ có máu trượng phu.
    Cả chiếu nhậu gật gù tán thưởng lời Chín Cửu, cả đám hò dô dô mấy lượt mừng lời nói hay.
    Mấy tháng sau cô Mười về thưa chuyện với ông Bảy Tiệm, trong mấy anh em thì Bảy Tiệm thương cô Mười nhất. Bảy Thạnh bèn cắt cho cô Mười một mảnh đất vườn để cất nhà. Nhà cất xong, cô Mười và bốn đứa con về đấy ở. Cô Mười theo Bảy Tiệm đi buôn đường khắp nơi, mấy năm sau có được món tiền kha khá cô Mười mua một căn nhà ở chợ bà Bâu và mở tiệm chạp phô, từ đó công việc làm ăn ngày càng phất lên.
    Cô Mười ly thân ra riêng thì Hai Hân rước cô Hai Sự về sống chung luôn, hai người có thêm mấy mặt con nữa, tuy ly thân nhưng Hai Hân vẫn chạy tới chạy lui chứ không cắt đứt. Cô Mười cũng vui vẻ như thường chứ chẳng điều tiếng gì, nhà cửa khi cần gì cũng kêu Hai Hân về sửa, việc nhà khi cần có mặt đàn ông thì Hai Hân vẫn đứng ra cáng đáng. Cô Mười cũng không hề nặng nhẹ gì với Hai Sự, người trong làng cứ ngỡ có cuộc chiến nhưng chẳng bao giờ thấy, họ cứ nghi ngờ hổng biết cô Mười có toan tính gì trong đầu sao chẳng thấy lộ ra.
    Ngày giỗ ông Ba Tá, cô Mười và cả Hai Sự cùng làm mâm cơm cúng, tuyệt nhiên không có lời qua tiếng lại, cũng chẳng ai thấy mặt nặng mày nhẹ bao giờ. Mấy đứa con cô Mười và con cô Hai Sự cũng nhìn nhận anh em và thân mật với nhau khiến người làng cứ mãi bàn tán gia đạo nhà cô Mười ăn ở vậy mà hay.
    Người chợ bà Bâu đồn lung tung là Hai Hân lấy vàng của cô Mười đem cho cô Hai Sự. Mấy đứa con cô Mười nghe được nên sanh nghi, thằng Hùng con lớn của cô Mười hỏi cổ:
    – Có Phải ba lấy vàng của má đem cho dì Hai Sự?
    Cô Mười cười cười không xác nhận cũng chẳng bác bỏ:
    – Thôi đi con, nước chỗ đầy chảy xuống chỗ cạn cũng là lẽ thường.

 

– Tiểu Lục Thần Phong

(Ất Lăng thành, 0723)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút.
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
Khoảng gần ba giờ chiều tôi rời khách sạn Ninh Kiều, cuối đường Hai Bà Trưng, nhìn ra sông Cần Thơ. Trời hanh nóng và đứng gió. Giấc ngủ trưa dài sau bữa ăn nhẹ, khiến tôi tỉnh táo và phấn chấn hẳn lên. Hãy còn sớm, hai giờ nữa tôi mới có hẹn với gia đình người bạn thân ở nhà hàng Hoa Sứ. Thời gian đủ để tôi dạo chơi và ghé chợ Cần Thơ tìm mua một vài thứ đồ lưu niệm… Vài cơn gió nhẹ mang theo hơi nước từ dòng sông thổi dọc theo công viên thật dễ chịu. Bến Ninh Kiều ngày nay thật khang trang và đẹp. Đi dọc mé sông, từ đây tôi có thể nhìn thấy chiếc cầu treo Cần Thơ sừng sững, hiện đại. Phía trước khách sạn là nhà hàng nổi và không xa là chiếc du thuyền nhà hàng lộng lẫy về đêm. Du khách vừa ăn tối vừa dạo cảnh quanh sông và có cảchương trình văn nghệ thật đặc sắc của miền Tây sông nước


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.