Hôm nay,  

Con Đen

09/09/202309:37:00(Xem: 3212)
Truyện

yenhoa

Tôi nhìn sững vào con bé đen (nên gọi là con bé hay là cô bé đây). Nó đang đứng nói chuyện với một người đàn ông Mỹ lớn tuổi, cũng đen như nó, ở trước cửa phòng ra vào khu tập thể dục. Con bé chừng mười bảy, mười tám tuổi là cùng, nước da đen cáy trông như một pho tượng đồng đen. Thân hình bó sát trong bộ đồ tập thể dục, khoe ra cặp đùi thuôn dài, khoẻ mạnh. Bờ ngực tròn, vun cao, hơi lấp ló ra ngoài chiếc áo che ngực ngắn. Mà tại sao tôi chú ý sững sờ đến con bé nầy vậy cà. Không biết nó là Mỹ đen thiệt, hay đen lai Mễ, Ấn Độ, Phi Luật Tân, hay Việt Nam cũng không chừng. Nhìn nó đang líu lo nói chuyện với người đàn ông Mỹ, tôi không phân biệt được người đàn ông là gì của nó. Nhưng nhìn nhân dáng nó là tôi thoáng hiện trong ý nghĩ, nó có nét Á Đông phảng phất trong nụ cười của nó. Mà Á Đông là quê tôi, Việt Nam là quê tôi mà.
    Tôi leo lên máy, "set up" và bắt đầu chạy theo tốc độ ấn định. Thời gian gần đây, tôi thấy mình nặng thêm mấy chục pounds, nên tôi phải tìm đến nơi nầy để mỗi buổi sáng, tôi leo lên máy chạy. Thế mà khoẻ. Chạy đổ mồ hôi, rồi vào phòng xông hơi, tắm nước lạnh, rồi về chuẩn bị đi làm ca đêm. Cuộc sống tôi như một cuốn phim, quay chậm, từng giờ, từng phút, như định sẵn.
    Phòng tập thể dục lúc nầy rất khá, có trang bị TV, để người tập vừa xem TV (hay nghe nhạc) cho cảm thấy thời gian trôi nhanh hơn, vừa tập. Đó là vấn đề tâm lý. Tôi mải miết nhìn lên màn ảnh xem ông Tổng Thống Bush đang tuyên bố gì về chiến tranh chống khủng bố. Tin nầy giật gân đây. Nước Mỹ đang bình yên bỗng dưng sôi sục. Dân chúng hoang mang vì bọn khủng bố cướp máy bay đâm vào hai khu thương mại to nhất nước Mỹ. Chưa hết, nay Mỹ còn đem quân đánh sang sào huyệt bọn chúng. Dĩ nhiên là khi đã đưa bọn khủng bố vào chân tường, bọn nó sẽ đi ngược lại. Không biết màn thứ hai của bọn nầy là gì đây.
    Khi tôi rời máy truyền hình ngó qua bên phải thì thấy con đen cũng đang chạy trên máy gần tôi. Nhìn kỹ, tôi thấy nó đen mà hấp dẫn dễ sợ. Hai gò ngực vun cao, nhô lên như muốn thoát ra khỏi vòng nịt.. Gò ngực nầy là nguyên si con gái đây, không bơm, độn, chưa chửa đẻ. Và cái eo nhỏ của nó thật hết sẩy. Cái eo rất thon. Tôi nhìn rõ hết vì nó mặc chiếc áo ngắn cũn, để lòi cả lỗ rún ra. Trên lỗ rún, con bé còn đeo tòn teng một cái vòng. Đây chắc là mốt thời thượng của tuổi trẻ bây giờ. Ở đâu cũng đeo khoen được hết. Lỗ mũi, bên mắt, lỗ rún, kể cả dưới lưỡi cũng đeo khoen, kể cả chổ kín nhất có đứa cũng có hột. Thật tôi không hiểu nổi bọn nhóc muốn gì. Với con bé đen nầy, tôi chỉ thấy được cái khoen ở chỗ lỗ rún thôi, chứ mấy chỗ kia làm sao tôi thấy được.
    Tôi vừa chạy vừa nhìn nó, nó cũng xoay lại nhìn tôi cười hồn nhiên.
    - Hi!
    - Hi!
    - Xin lỗi, cô là người Mễ? - Tôi hỏi cho có chuyện.
    Con bé cười lắc đầu:
    - Mỹ lai Việt.
    - Ô.
    Tôi la lên, vì tôi đoán trúng, tôi mừng thiệt tình vì tôi gặp một đồng hương đen. Dĩ nhiên, ở xứ nầy gặp các em đen là chuyện thường tình. Đây là quê hương chính của họ mà. Nhưng con bé nầy lai Việt Nam nên cùng gốc gác với tôi. Dù dưới dạng nào đi nữa. Con bé cũng có chút máu của tôi trong đó. Máu của ông Lạc Long Quân và bà Âu Cơ. Dù trải qua mấy ngàn năm rồi, mà lại lai nữa, nên giòng máu nầy chắc cũng lạt nhách rồi.
    - Mẹ you là người Việt?
    - Ờ hớ.
    - You có biết Việt Nam là xứ nào không?
    Bỗng nhiên con bé trổ tiếng Việt ngon lành:
    - Chú tưởng cháu không nói được tiếng Việt hả, cháu sinh tại Mỹ nhưng mẹ cháu đã dạy cháu tiếng Việt từ nhỏ, cháu nói còn hay hơn chú nữa đó.
    Tôi ngẩn ra. Thế là tôi bị hố, cứ nghĩ người Việt nào qua Mỹ cũng thích nói tiếng Mỹ, để chứng tỏ mình qua Mỹ lâu, quên hết tiếng Việt cũng là điều hãnh diện. Không như tôi. Đã bảy năm ở xứ sở nầy mà gặp người Mỹ nào là nói như muốn bạnh quai hàm, vừa nói vừa lấy tay làm dấu.
    - Thế mẹ cháu sang đây năm mấy?
    - Thưa chú, hình như năm bảy lăm.
    Con bé ngoan, mẹ nó biết dạy nó lễ phép.
    - Mẹ cháu nói hồi đó, mẹ cháu hoảng quá, từ miền Trung di tản vô Sài Gòn, một thân một mình cô quạnh. Thấy người ta chạy thì cũng chạy. Chạy xuống bến Bạch Đằng thấy tàu nào cũng leo lên. May mà đi đươc.
    - Mẹ cháu đi một mình qua đây?
    - Một mình chứ mấy mình, qua đây mấy năm mới gặp ba cháu, ba cháu cũng đi tập ở đây. Ông đang đạp xe trên máy đàng kia kìa.
    Tôi nhìn theo hướng tay nó chỉ và thấy người Mỹ đen khi nãy.
    - Ở Việt Nam mẹ cháu ở tỉnh nào, biết không?
    - Quận Lý Tín, tỉnh Quảng Tín, thường gọi là Chu Lai đó.
    Tôi giật thốt người lên. Chu Lai là nơi tôi đã gắn bó từ thời chiến tranh, tôi đã đi dạy học ở đó, quen biết khắp cả vùng Lý Tín.
    Tôi đáp vi vàng như được gặp chính nó là dân... Chu Lai.
    - Thì chú cũng là dân Chu Lai đây nầy.
    Con bé trố mắt nhìn tôi:
    - Chú biết An Tân không? cháu đã về thăm Việt Nam năm ngoái, cháu về An Tân ở cả tháng, mẹ cháu dẫn cháu đi chơi cùng hết. Qua đây cháu nhớ bên đó lắm.
    - Mẹ cháu tên gì?
    - Phan Thi Như Thi.
    Tôi hoảng hốt một lần nữa:
    - A, cháu là con của Như Thi hả. Chú biết mẹ cháu mà. Thất lạc nhau cũng hơn ba mươi mấy năm rồi.
    Tôi mừng nên nói mò, nhưng mà Như Thi thì ở An Tân ai mà không biết, chắc không có sự trùng tên đâu. Tôi nghĩ thế.
***
An Tân là vùng đất cuối của quận Lý Tín, giáp ranh với Quảng Ngãi. Ngày Mỹ qua, đóng ở căn cứ Chu Lai, An Tân cũng đươc đồng hoá, gọi là Chu Lai, cùng nghĩa với một nơi ăn chơi của lính Mỹ. Ở đâu có lính Mỹ là ở đó có "gái". Gái từ vùng quê lên, gái từ Đà Nẵng vào, gái từ Sài Gòn ra, tấp nập, ồn ào, son phấn. Những snack bar mọc lên như nấm trên các nhà dọc theo quốc lộ Một ở An Tân. Rồi qua khỏi cầu ông Bộ, nơi trên đồi cao, có một đơn vị lính Mỹ đóng trên đó, gái cũng theo ra lập những cái chòi dã chiến để "tiếp khách". Những chàng GI xa xứ, mỗi lần từ trên núi xuống thì tấp vào đây du hí. Thôi thì ô kê salem loạn xà ngầu. Nơi nầy gọi là Quán Bà Miết.
    Không biết cái bà Miết nào đó, đầu tiên đến đây lập quán, nuôi em út, tiếp khứa Mỹ, mà tên gọi trở thành một địa danh của giới ăn chơi. Địa danh nầy được làm bạn đồng hành với khu Khâm Thiên Hà Nội ngày trước, hay khu Ngã ba Chú Ía ở Sài Gòn, nhưng mà cũng có cái khác nhau, khu Ngã Năm chuồng chó, Ngã ba Chú Ía tiếp khách Việt, còn quán bà Miết thì chuyên tiếp toàn khứa Mỹ.
    Một buổi chiều trời mưa tầm tã. Sau giờ dạy học, tôi chạy xe gắn máy từ trường trung học Lý Tín về Tam Kỳ. Mưa loang loáng nước và gió tạt mạnh, tôi thu người trong chiếc áo đi mưa, cố tránh những dòng nước chảy tràn vào thân thể. Qua khỏi cầu ông Bộ một đoạn là gần tới quán bà Miết, khu nầy bắt đầu lên đèn. Những ngọn đèn được thắp bằng pin của máy PRC25 của lính Mỹ cho, cũng đủ sáng một dãy hàng quán dài chừng nửa cây số. Nhà nào cũng nuôi em út nên hễ người lính Mỹ nào xuống đây ăn chơi đều bị xin pin máy PCR25. Nhờ vậy, khu hàng quán tuy không có điện nhưng đèn đuốc cũng sáng choang. Trời mưa chạy xe đàng xa, nhìn tới quán bà Miết tôi thấy lấp lánh sáng như một dãy sao.
    Một chiếc xe jeep nhà binh chạy vụt qua chỗ tôi. Trên xe, phía trước, một chàng lính Mỹ lái xe mặt đỏ gay, ngồi bên là một chàng lính Mỹ khác và một cô gái. Tôi cứ tưởng hai người đang âu yếm nhau, nhưng sao ô kìa, không phải, hai người đang giằng co nhau. Bỗng người lính Mỹ lái xe dừng xe lại, đột ngột, người lính Mỳ ngồi với người con gái, đứng lên đẩy người con gái xuống xe, cái đẩy khá mạnh khiến cô gái chúi nhũi xuống mặt đường, nằm bò lê trên đường, miệng cô tuôn ra một tràn chửi thề, đ.m.
    Trời vẫn mưa dầm dề, tôi chạy xe qua cô gái, cô gái thôi chửi nhưng miệng tru tréo:
    - Đồ chơi chạy, đồ đ. chạy, đ. mẹ nó chứ, hu hu!
    Tôi chạy xe qua, cô gái ngoắc tay lia lịa, tôi biết từ đây ra tới quán bà Miết cũng khá xa, đi bộ cũng mất nửa tiếng đồng hồ, tôi đâm lòng trắc ẩn, nên quay xe lại trước cô gái:
    - Có chuyện gì, trời mưa trời gió thế nầy mà bị bỏ giữa đường ướt nhem hết vậy?
    Cô gái lại chửi một tràng dài nữa:

    - Đ. me mấy thằng Mỹ chạy làng. Trời mưa thế nầy mà bà chủ còn bắt tiếp khách. Tụi Mỹ bảo lên đồn với nó, chơi xong nó trả tiền, nào ngờ, hai thằng chơi xong chở xuống đây rồi bỏ chạy luôn, không trả đồng xu nào.
    Tôi nhìn cô gái, son phấn dày dạn đã che lấp đi trong cô sự hồn nhiên, chứ thật ra, cô còn trẻ lắm, khoảng mười tám mười chín, giọng nói, chính là giọng nói con gái Lý Tín, vì những học trò tôi cũng nói giọng nói ấy. Tôi thấy thương cảm bèn lên tiếng:
    - Thôi đừng khóc nữa, lên xe tôi chở về, chứ không mưa ướt hết.
    - Anh cho em về quán bà Miết. - Cô gái lên ngồi phía sau tôi và nói vậy.
    Tôi rồ ga, xe vọt đi, mưa càng lúc càng nặng hạt. Tôi quay lại hỏi chuyện (cho có hỏi):
    - Cô làm gì ở đây?
    Cô gái trả lời không ngượng ngùng:
    - Anh biết rồi mà cố hỏi, làm gái chứ làm gì, ở khu nầy thì chỉ làm gái cho Mỹ thôi.
    Tôi buột miệng nói một câu lảng nhách:
    - Sao không kiếm nghề khác?
    - Vùng nầy toàn cát và dương liễu có nghề gì mà làm đâu. Xin đi làm sở Mỹ ở Chu Lai rồi tụi Mỹ cũng tìm cách chơi, thôi làm gái cho xong.
    Cô gái trả lời gọn bâng, tỉnh bơ, như đang nói một chuyện làm ăn bình thường nào đó, khiến tôi không còn mở miệng để khuyên răn hoặc an ủi câu nào nữa, tôi hỏi tiếp:
    - "Làm" ở đây có khá không?
    - Thì anh thấy đó, gặp thằng Mỹ tốt thì nó ăn bánh trả tiền đàng hoàng, còn không thì nó đ. chạy.’’
    Tôi nghe lạnh xương sống. Xã hội đã đưa cô gái vào đường tội lỗi và ăn nói trây trúa quá, không ngượng miệng. Trong lớp học, tôi đã dạy các học trò những điều đạo đức, như làm ăn lương thiện, mà ngoài đời, sát nách cuộc sống chứ có đâu xa, những cảnh tượng mời chào, đón khách của gái diễn ra nhan nhãn khắp vùng Chu Lai nầy, tôi còn có thể đứng trên bục giảng để nói những điều sách vở nữa không? Nhưng tôi cũng chống chế:
    - Đừng nói vậy, cô biết tôi là thầy giáo dạy ở trường trung học Lý Tín không?
    Giọng cô gái phía sau:
    - Em biết chớ sao không, cái quận lỵ nhỏ xíu nầy chuyện gì mà không biết. Anh mới đổi về dạy đây mà ai cũng đồn rân.
    - Họ đồn gì?
    - Đồn anh yêu cô giáo Uyên.
    - Ai nói vậy?
    - Thì học trò anh nói chứ ai.
    - Tụi nó đồn bậy đó, đó chỉ là tình đồng nghiệp thôi.
    Tôi không muốn giải thích với cô gái nầy, có ich gì đâu, những lời đồn vẫn thường có giữa học trò với thầy giáo hay giữa các thầy cô giáo. Chuyện đó cải chính làm gì cho mệt. Khi đến quán bà Miết, tôi dừng xe, cô gái xuống. Trước khi đi, tôi hỏi:
    - Cô tên gì?
    - Thi, Phan Thị Như Thi.
    - Tên nghe đẹp ghê, thôi cô vào nhà đi kẻo ướt hết, hẹn có dịp gặp lại.

***

Một lần khác, mà lần nầy là lần quyết định. Tôi cũng đi dạy về, chạy xe ngang qua chỗ "làm ăn" của Như Thi ở quán bà Miết, cô thấy tôi chạy xe qua, từ trong nhà, cô chạy ra đường ngoắc tay lia lia:
    - Anh Khôi, anh Khôi, dừng xe lại em nói cái nầy.
    Tôi phải dừng xe lại, cô đến cầm ghi đông xe rồi kéo tôi vào quán:
    - Vào đây chơi mà, lâu quá mới gặp anh, em nhớ anh muốn chết...
    Tôi biết cô gái nói chơi thôi, nhưng điệu bộ của cô làm tôi cảm động.
    - Anh ngồi xuống đây, anh có sợ khi học trò anh đi qua thấy không?
    Tôi làm bộ anh hùng rơm:
    - Sợ gì, có gì đâu mà sợ. Nhưng hôm nay tôi bận về nhà có chuyện.
    - Thì ngồi chơi chút hãy về, anh uống bia và ăn mực khô Đại Hàn nhé.
    Không cần tôi có ý kiến, cô gái đem ra mấy lon bia Ham cuả Mỹ và một bịch mực khô thơm phức. Cô khui bia đưa tận tay tôi:
    - Anh uống đi, em mời anh vào đây là để cảm ơn anh hôm đó đã chở giúp em về.
    - Ơn nghĩa gì.
    Nói vậy chứ tôi cũng thấy vui vui khi có người mang ơn mình, tôi uống một ngụm bia mà nghe mát lạnh cả cổ. Cô gái cũng cầm một lon bia cụng với tôi:
    - Mời thầy, em gọi thầy như học trò thầy nghe, thầy dô năm mươi phần trăm với em nghe.
    - Không đươc, tôi uống bia không được nhiều.
    - Con trai gì mà dở ẹt vậy?
    Tôi bị khích tướng nên uống một hơi cạn hết lon bia. Cô gái lấy lon bia khác. Mở nắp, cứ như vậy, tôi uống đến lon thứ ba thì nghe mình quờ quang, ăn nói lắp bắp. Tôi nghe tiếng cô gái:
    - Anh say rồi, vào giường em nằm nghỉ đi.
    Tôi được cô gái xóc nách đem vào phía trong, nơi đây có nhiều giường kê sát nhau, chỉ che một tấm vải màn ngăn cách. Tôi nằm xuống giường, cô gái đắp lên đầu tôi chiếc khăn tẩm nước đá mát lạnh. Tôi cầm tay cô gái vuốt nhẹ, tự dưng một luồng điện chạy rần rật trong người tôi. Đó là sự thèm muốn một thân thể đàn bà. Có rượu vào, khiến tôi mạnh dạn thêm lên, tôi kéo cô gái xuống gần tôi và hôn lên mặt cô, cô để yên, tôi đưa tay sờ soạng vào ngực, núm vú nhỏ, căng tròn, rất thon. Cô gái lại chủ động tự cởi áo quần ra. Tôi mù mờ trong một cảm giác sướng khoái, tôi mê man trong những cái vuốt ve của cô gái, tôi mơ hồ thấy cô lại cởi áo quần tôi ra, rồi leo lên tôi. Một lúc sau tôi rùng mình... sướng quằn quại, rồi thiếp đi. Tôi nghe thoảng theo hơi gió mùi thơm của loại nước hoa rẻ tiền và giọng nói của cô gái đâu đó với mấy người bạn “ông thầy còn trai tân mầy ơi.”

***

Tôi với cô giáo Uyên vừa có cảm tình với nhau, bỗng nhiên cô nghe đồn tôi bồ với một “con đĩ” ngoài quán bà Miết, cô khinh tôi ra mặt. Các thầy cô cũng nói ra nói vào, đại ý là “làm đĩ mười phương cũng nên để một phương lấy chồng” nghĩa là tôi đã dạy học ở đây thì phải giữ thể diện cho học sinh. Tôi không biết nói gì hơn là tự tách mình ra khỏi đám thầy cô đạo đức đó, để yêu Như Thi, bởi vì tôi thấy, trong tận cùng, Như Thi có một cái gì đó rất đáng quý, như là sự hiền lành, chân thật và nhất là Như Thi luôn luôn bảo tôi, “anh phải xa em đi, đừng phải vì em mà anh mang tiếng’’. Tôi làm anh hùng rơm một lần nữa, trả lời:
    - Anh yêu em có gì đâu mà xấu, tình yêu cao quý lắm.
    Thường như vậy, Như Thi hay khóc nhoè nhoẹt trên vai tôi.
    Năm đó tôi bị động viên đi lính. Tôi thấy như mình đươc giải thoát, giải thoát khỏi cái trường lớp nặng nề với những lời ong tiếng ve. Tôi muốn làm anh hùng kiểu ‘’anh là lính đa tình”. Có lẽ, lính tráng thích hợp với tôi hơn và cũng hợp với hoàn cảnh của tôi hiện giờ.
    Tôi thụ huấn ở quân trường Thủ Đức chín tháng. Khi ra trường, tôi quyết tâm đổi về Sư Đoàn 2 bộ binh, nhưng không được, vì nhu cầu quân số tôi phải về Sư Đoàn 5 BB, đóng ở Bến Cát Bình Dương. Với đơn vị mới, tôi phải lặn lội hành quân suốt năm, suốt tháng. Tôi không liên lạc được với Như Thi từ ngày đó. Càng cách xa, tôi có thì giờ để tự hỏi lại mình, tôi có yêu em không? hay là yêu em chỉ vì sự thèm muốn xác thịt của một người con trai mới lớn. Tôi không dám nói ra, nhưng mỗi lúc tôi bị giằng xé về tình cảm đó thì có một tiếng nói mơ hồ ở đâu vang vọng trong tai tôi “em là con đĩ, em là con đĩ, anh quên em đi”. Tôi cương quyết dứt khoát không nghĩ tới em nữa, nhưng, mỗi lần nghĩ tới em, lòng tôi vẫn thấy đau như dao cắt.

***

Con bé đen nói:
    - Chú có muốn gặp mẹ cháu không?
    - A à, để lúc nào rảnh chú sẽ ghé thăm mẹ cháu, mẹ cháu khoẻ không?
    - Cũng khoẻ, mẹ cháu nhớ Việt Nam lắm nên mẹ cháu hay buồn lắm. Chắc gặp lại chú mẹ cháu sẽ vui. Chú đến nhà cháu chơi nghe chú.
    - A à, chú sẽ đến chứ, nhưng hôm nay chú phải đi làm, cháu cho chú số phone để chú gọi thăm mẹ cháu.
    Con đen tìm cây viết và ghi số phone cho tôi. Tôi bỏ mảnh giấy vào túi áo và nói:
    - Chắc chắn chú sẽ đến thăm. Thôi chú về trước nghe.
    Tôi đi về như chạy.
    Khi về nhà, tôi cởi áo ra bỏ vào chỗ đồ dơ. Buổi chiều vợ tôi lấy áo dơ đi giặt, nên ướt và rách luôn tấm giấy ghi địa chỉ và số phone của Như Thi. Tôi không tìm đâu ra tấm giấy ấy một lần nữa, nên không thể gọi hoặc đến thăm nàng.
    Tôi đi tập thể dục cũng chẳng bao giờ gặp lại “con đen” nữa. Tôi không hiểu tại sao nó cũng biệt tăm như vậy.

– Trần Yên Hòa

 

Ý kiến bạn đọc
11/09/202304:46:01
Khách
Truyện hay quá nhưng kết cục thì chắc cũng là kỷ niệm.... thôi thì <hãy ngủ yên tình yêu >
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thuở xưa, theo lệ thường, những cô gái được tuyển vào cung bao giờ cũng phải được các vị nữ quan hoặc các viên thái giám dạy dỗ qua một hai khóa về lễ nghi để biết phép tắc cư xử trong cung, để ôn lại bổn phận người đàn bà, v.v... Một phụ nữ từ dân giả được tuyển vào cung, dần leo lên tới địa vị quốc mẫu lẽ nào lại không trải qua những khóa giáo dục đó? Khi đã được giáo dục mà không chịu theo phép tắc, hành động vượt lễ nghi đến nỗi gây tai tiếng trong dân gian thì khó ai chấp nhận được. Những động lực thúc đẩy mấy người “đàn bà yếu đuối” ấy dám đạp đổ cả lễ nghi của triều đình thường là tình yêu, tình dục, lòng tham... Liệt kê những phụ nữ này vào hạng “lộng hành phép nước” chắc hẳn không oan!
Mẹ tôi kể rằng ngày mẹ tôi còn thơ ấu, ở tận miền quê xa xôi, huyện Đông Anh hay Đông An gì đó thuộc tỉnh Thái Bình của bà, có một cây nhãn cổ thụ, cành lá sum suê râm mát, cây nhãn ngự trị nguyên một góc vườn lớn, độc lập, thoải mái, không chung đụng với một cây nào khác...
Tháng ba lại về, mùa xuân đang ngấp nghé bên thềm. Tuần trước những nụ hoa đào còn bé như hạt tiêu, ấy vậy mà giờ này lớn bằng đầu ngón út, những nụ hoa chi chít trên cành, có một số đã nở sớm phơn phớt sắc hồng trong nắng vàng ban mai dưới bầu trời xanh biếc...
Anh Bông vừa ung dung nhâm nhi ly cà phê buổi sáng nơi chiếc bàn ăn gần cửa sổ vừa ngắm mây trời trong xanh và cành hoa mới nở rung rinh trong gió ngoài vườn sau, thấy bóng vợ thấp thoáng từ phòng ngủ bước ra anh Bông lên tiếng:
Cô bé tên là Anna, cô vừa là chị cả vừa là mẹ của tôi. Trên tấm hình này, cô bé lên mười hai tuổi. Còn tôi là con bé mặc áo đầm nhung có hai dây đeo, tôi bám theo cô ấy giống như bám vào phao cứu đắm...
Trong lúc mọi chuyện tưởng đang tốt đẹp thì chúng tôi bỗng nhận được một cái tin đáng sợ. Đó là vụ anh Kha được thăm nuôi hai lần trong một ngày bị phát giác. Số là anh Kha được người nhà của linh mục Hương đến thăm vào buổi sáng. Vì quà thăm khá lớn nên cán bộ khám đường lưu ý nhớ kỹ...
Hồi tôi học lớp bảy, trường có phong trào làm báo tường mừng Xuân. Vì lớp không có ban Báo Chí nên tên lớp trưởng kiêm hết mọi chuyện, kêu gọi, gom bài. Hắn gặp tôi tại sân trường cuối giờ hôm đó...
Tin Ngọc Hoài Phương ra đi không bao giờ trở lại đã nhắc tôi nhớ lại những tháng năm hai đứa làm báo với nhau tại Sàigòn trước 1975. Thuở ấy trên khúc đường Gia Long, giữa Nguyễn An Ninh và Ngã Sáu Sài Gòn, có ba Tòa soạn báo Thời Luận, báo Tiếng Chuông và báo Dân Chủ có mặt từ thời Đệ I Việt Nam Cộng Hòa...
Cuối tháng 2 năm nay, 2023, chỉ trong vòng hai ngày, tôi đã mất đi hai người bạn cùng sinh năm 1941: Nguyễn Ngọc Kiểm, bút danh Ngọc Hoài Phương, & Bùi Hồng Sĩ...
Đất trời vào xuân, Hoa Châu mở hội chợ phù hoa. Người trong thiên hạ dập dìu trẩy hội, thôi thì khỏi phải nói, nam thanh nữ tú vờn nhau liếc mắt đưa tình, áo quần phới phới sắc xuân, những cụ ông cụ bà cũng móm mén cười hoan hỷ, đàn em thơ như những con sơn ca tíu tít vào đời...Thành Ất Lăng năm nào cũng thế, cứ mỗi độ xuân về là rực rỡ cờ giăng phướn thượng, đèn hoa khắp chốn, năm nay hội chợ có cả trăm gian hàng rộn ràng tấp nập, nào là hô lô tô, bầu cua cá cọp, thảy vòng, ném banh… nhiều nhất vẫn là những gian hàng giới thiệu sản phẩm của giới doanh gia nghiệp chủ, mặc dù không nói ra nhưng ai ai cũng cảm nhận được quyền lực chi phối của bọn họ, thật tình mà nói, cũng nhờ sự tài trợ của họ mới có thể tổ chức được hội chợ xuân...
Chị Bông hấp tấp lái xe đến văn phòng bác sĩ. Cái hẹn 4 giờ chiều nay vậy mà 4 giờ chị mới nhớ ra. Từ nhà đến phòng khám cũng mất 20 phút. Cũng may chị sẽ đi trên những con đường nhỏ vắng xe trước khi ra tới đường lớn để đến phòng bác sĩ nên chị Bông có thể chạy nhanh theo ý muốn. Chị Bông đang chạy tốc độ nhanh trên con đường Carter hai bên là khu apartment thì bỗng đâu một con chó con từ bên này đường phóng qua bên kia đường khi chiếc xe của chị vừa đến gần, chị tức tốc thắng lại ngay, chiếc xe đang đà nhanh bị đột ngột dừng lại làm chị Bông như muốn tung người ra khỏi dây seatbelt. Thế mà dường như vẫn không kịp...
Nhưng đến khi chiến cuộc miền Nam trở nên sôi động thì hai bên mất hẳn liên lạc. Vào năm 1975, sau ngày đất nước thống nhất, ông Đ. hành đạo ở xứ đạo Phước Tỉnh, một xã đánh cá rất giàu có ở Bà Rịa...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.