Hôm nay,  

Chuyện ăn

12/09/202309:59:00(Xem: 3261)
Phiếm

IMG_7124

Chúng ta “ăn để mà sống” hay “sống để mà ăn”? Tôi vẫn nghĩ rằng, mọi người đều phải trải qua cả hai giai đoạn kể trên, khi còn trẻ sung sức thì “sống để ăn”, và khi tuổi về xế chiều thì “ăn để sống”.
    Vì tôi sinh ra với cái nốt ruồi trên khóe miệng nên máu “ăn hàng” có trong tôi từ bé, đâu phải tự dưng má gọi tôi là con “Mỏ Khoét”. Nhà tôi có quán nước giải khát, má bận cả ngày với khách hàng, tôi vẫn tranh thủ xin tiền má rồi chạy biến qua các hàng quà vặt trong xóm với các món hàng mê mẩn bất cứ đứa bé nào: kẹo bột, bánh tráng, bánh sữa mặt trăng, bánh tay cùi... để rồi ngày nào tôi cũng chán cơm vì bụng đã no nê. Có lần má cầm cây roi, rồi để cái bánh bông lan bên cạnh, bắt tôi phải ăn xong chén cơm nếu muốn có bánh bông lan, hoặc là ăn roi. Tôi còn ganh tỵ với cả đứa cháu trai nhỏ hơn tôi bốn tuổi, bữa nào tôi đi học về mà thấy cái miệng nó ướt ướt, tôi sà vào hít hà miệng nó, thấy mùi xá xị là lên cơn õng ẹo đòi má phải khui cho tôi một chai, nhưng má cương quyết không cho, nào vì tiếc chai xá xị, mà má ra điều kiện “Mỏ Khoét” phải ăn cơm xong mới có xá xị. Thích nhứt là khi ấm đầu sổ mũi, tôi có “đặc quyền” điểm danh các hàng phở, mì gõ trong xóm để má sai người đi mua về cho tôi dưỡng bệnh.
    Lớn lên vào tuổi niên thiếu tung tăng đến trường thì chuyện ăn hàng là... đương nhiên. Có cô học trò nào không say sưa ăn vặt? Các quán xá trước cổng trường, vỉa hè lề đường suốt con đường đi học, lũ chúng tôi rành rọt còn hơn thuộc bài. Cóc ổi xoài ngâm chấm muối ớt cay xè, kem chuối lạnh có đậu phộng giã nhuyễn bùi bùi, khoai mì trộn dừa ôi mê ly, khoai lang chiên giòn, hôm nào có nhiều tiền thì vào hàng chè nóng, ôi các thau chè bắt mắt làm chảy nước miếng của những tâm hồn đam mê ăn uống: chè táo xọn, chè đậu, chè thưng, chè khoai môn, chè bà ba thơm ngọt ngất ngây.
    Khi tôi lên trung học, mức độ ăn hàng cũng... tăng theo cấp lớp. Ngày ngày đạp xe ra Sài Gòn học thêm luyện thi đại học, chúng tôi không bỏ sót bất cứ lời đồn nào về các món ăn khắp bốn phương trời. Nào gỏi đu đủ khô bò trước Chùa Xá Lợi, chè đá đậu Lý Chính Thắng (trước 1975 là Chè Yên Đổ lừng danh), bún bò Kỳ Đồng, bánh cuốn Văn Hoa ĐaKao, bột chiên hẻm Chu Mạnh Trinh Phú Nhuận. Các nẻo đường ăn hàng luôn luôn là hình bóng ấp ủ trong trái tim tôi, chớ hổng phải hình ảnh... thằng bạn nào hết á!
    Đó là các quán ăn bên ngoài, còn các món ăn vặt trong xóm thì khỏi nói, tôi cũng có mặt đầy đủ. Sát bên nhà tôi là chị hàng xóm có tủ trái cây, khoảng giờ trưa là chị bày hàng, các miếng xoài, dưa hấu, đu đủ được cắt gọn gàng tươi mát, phủ một lớp đá bào lên trên, là món giải khát tuyệt vời của mùa nóng bức. Thấy tôi vừa dắt xe khỏi cổng nhà chuẩn bị đi học thêm, chị cười duyên với tôi:
    – Mở hàng giùm chị đi em, đu đủ mới cắt nè, ngọt lịm luôn đó.
    Tôi vội vàng:
    – Thôi chị, em phải đi học ngay, kẻo trễ giờ.
    – Nhưng em ơi, “vía” của em rất tốt, lần trước nhờ em mở hàng mà chị bán sạch tủ trái cây trong vài tiếng đồng hồ, em làm ơn đi mà.
    – Chị làm em khó xử quá, thôi chị đưa đây, chút em ăn sau, tiền bạc em không có sẵn nhe.
    – Ối, em đừng lo, khi nào rảnh thanh toán luôn một thể.
    Từ đó, trưa nào chị cũng rình tôi vừa dắt xe ra là quăng liền 1 bịch đu đủ đá bào lên giỏ xe đạp của tôi (chính xác không thua gì các cầu thủ bóng rổ ném banh), kèm theo một nụ cười mãn nguyện sung sướng.
    Ở ngôi chợ nhỏ trong xóm, có bác Mộc là người còn giữ nét Bắc Kỳ dù di cư vào Nam đã lâu, bác vẫn vấn khăn trên đầu, mắc áo yếm lót bên trong chiếc áo cánh màu trắng mỏng. Bác bán các món Bắc thanh lịch như xôi vò, chè bồ cốt, rượu nếp, bánh trôi. Hôm đó bác làm món mới, là bánh cam ngào đường (không phải loại bánh cam nhận đậu xanh ngọt có mè bên ngoài, mà bánh cam nhân đậu xanh mặn xào hành lá, bên trên vỏ bánh là một lớp đường ngả màu óng ánh), là món ... ruột trong vô vàn món ruột của tôi, nên tôi có mặt từ sớm để mua trước khi đi học. Được vài hôm không thấy tôi mua nữa, bác gặp tôi trong xóm, liền hỏi:
    – Sao mấy hôm nay cô không mua bánh cam, ngán rồi ư?
    Tôi nhăn mặt tiếc nuối:
    – Thú thiệt với bác, đêm nào con cũng học bài đến khuya, sáng ngủ dậy chỉ kịp giờ đi học, con không thể thức dậy sớm hơn để ra chợ mua bánh, dù lòng con rất muốn, rất thèm.
    Bác Mộc hớn hở:
    – Tưởng gì! Vậy thì mỗi sáng sớm trên đường dọn hàng ra chợ, tôi tạt qua nhà đưa bánh cho cô, tiền bạc cứ để đấy, tính sau.
    – Dạ thôi, phiền lắm bác ơi.
    – Có phiền gì đâu, chỉ thêm vài phút thôi mà, cái chính là tôi muốn được cô... mở hàng.
    Tôi kêu thầm trong bụng “ nữa hả? cái vụ mở hàng !?” rồi hỏi bác:
    – Mà sao bác cần con mở hàng chớ, xóm này thiếu gì người?
    – Ối dào, chỉ có cô mới có cái nốt ruồi ngay khóe miệng, mở hàng là bảo đảm đắt như tôm tươi, cấm có sai nhé.
    Cũng giống như với chị bán đu đủ đá bào, tôi đành ngoan ngoãn dạ vâng, coi như đôi bên cùng có lợi, tôi có bánh cam ăn sáng, bác có tôi mở hàng. Ngày hôm sau bác đến gọi cổng khi tôi còn ngủ, may mà có ông anh sáng nào cũng dậy sớm tập tạ trước sân nhà, nên anh nhận bánh cam giúp tôi vì anh nghĩ chắc có chuyện đột xuất, hoặc tôi không được... khỏe. Nhưng vài ba ngày sau nhận bánh liên tiếp, anh liền mắng tôi:
    – Em học đâu ra cái thói “con nhà lính tính nhà quan” thế kia? Từ đây ra chợ vài chục bước chân, sao lại hành người ta như thế.
    Ui choa, cái này là “oan thị Kính” chớ không phải “oan Thị Màu”, nhưng dù tôi có phân bày thế nào, anh vẫn lạnh lùng ra lệnh: “dẹp ngay!”
    Tôi và bác Mộc đều rất buồn, nhưng biết làm sao hơn. Để bù lại, vào cuối tuần, sau khi ngủ nướng đã đời, tôi đi bộ ra chợ, ngoài phần bánh cam bác đã để dành như tôi dặn, tôi còn ngồi xuống ăn bát xôi vò trộn chè bồ cốt, dù tôi không còn mở hàng nhưng bác Mộc rất vui vì tôi vẫn là khách hàng thân quen.
    Cái thuở “sống để ăn” ấy đã trôi qua lâu rồi, vì ngày nay, khi bước qua tuổi 50 trở đi, nhìn bạn bè và anh chị em trong nhà bắt đầu có dấu hiệu “cao nọ cao kia”, bác sĩ dặn dò “kiêng nọ kiêng kia”, tôi bắt đầu bước vào giai đoạn...“ ăn để sống”. Người may mắn được tôi chọn đồng hành “ăn để sống” chính là chồng tôi, vì dù sao anh ấy cũng già hơn tuổi hai tuổi, còn lưu luyến gì cái thời “sống để ăn” nữa chớ.
    Thế là chương trình được áp dụng ngay luôn, bớt mỡ bớt đường, ăn nhiều rau, uống nhiều nước, đi bộ mỗi ngày ít nhất 30 phút, ăn bánh mì nâu, nhiều hạt, tránh thịt đỏ, bổ sung nhiều vitamin vân vân và vân vân.
    Thời gian đầu, chồng tôi cũng hăng hái tham gia nhưng rồi có ngày bỗng than thở:
    – Hễ em xem google nói gì là bắt anh thực hành, uống sữa uống nước, rồi nước chanh, nước artichoke, probiotic Kefir yogurt, bột nghệ, riết bụng anh no ngang, còn ăn được gì nữa đâu.
    – Chẳng phải đó là mục đích của chúng ta, ăn ít cơm ít thịt đó sao?
    – Em còn kiểm soát cả lunch bag mỗi khi anh xong việc về nhà, có hôm gần tới giờ đi ngủ, anh đang xem trận hockey chung kết gay cấn, em bỗng xuất hiện ở cửa phòng với ly nước trong tay, bảo rằng anh chưa uống đủ tám ly, làm anh chia trí lỡ một pha ghi bàn trên ti vi.
    Nói tới lunch bag, đúng là tôi có theo dõi chặt chẽ vì tôi biết tiệm quá bận rộn, chuyện quên ăn, quên uống đôi khi vẫn xảy ra. Có hôm, thấy trái quít còn trong lunch bag đem về, tôi hỏi lý do, anh bảo vì gấp gáp nên không có thời gian lột vỏ. Chuyện nhỏ, lần sau tôi lột sẵn trái quít, bọc plastic wrap gọn gàng, chồng đừng hòng lý do lý trấu gì nữa nhé.
    Rồi chồng tôi hờn mát:
    – Ở tiệm thuốc, anh là người hướng dẫn khách hàng vấn đề sức khỏe, còn về nhà thì phải... nghe lời em!
    Sao bữa nay anh ấy “mong manh dễ vỡ” vậy cà? Mà thôi, các đấng đàn ông cũng là con người biết buồn biết vui biết chạnh lòng, và nhất là đều... hảo ngọt, tôi bèn tung kế “dịu dàng”:
    – Anh thừa biết em làm vậy vì lo cho anh quá bận không còn thời giờ chăm sóc bản thân, đúng không? Thôi anh hãy ráng cùng em tiếp tục ăn uống “kham khổ” trong tuần, đến cuối tuần em lại nấu những món phở, bún chả giò, bánh canh, hủ tíu. À, tuần này nhà có nhiều rau thơm ngoài vườn, em sẽ làm món bánh xèo anh yêu thích đấy nhé.
    Nói đến bánh xèo là tôi nhức đầu, vì thỉnh thoảng tôi mới đổ bánh xèo nên nhân tiện làm luôn hai bịch bột, để cả nhà cùng ăn, rủ thêm hai người bạn thân thiết cho vui. Một người là cô bạn single mom ăn chay trường, còn người kia là nhỏ em cùng xóm mà tôi là má đỡ đầu hai đứa con gái của nó, chồng nó đi làm xa. Đổ bánh tuy có mệt, nhưng chưa mệt bằng việc phải nhớ đổ bánh cho đúng ý từng người, này nhé:
    – Đầu tiên phải đổ mấy cái chỉ có nấm và tàu hũ cho cô bạn ăn chay.
    – Tiếp theo, con gái tôi: nhiều tôm, ít thịt, không giá.
    – Thằng fiance của con gái: không onion, không mushroom, nhiều giá.
    – Con trai tôi: không mushroom, không tôm, ít giá.
   – Hai đứa con gái đỡ đầu: không giá, không onion, không đậu xanh, không mushroom, không thịt, nhiều tôm và tàu hũ.
    – Cuối cùng mới đổ cho vợ chồng tôi và nhỏ em hàng xóm thuộc nhóm thích đủ thứ, hổng chừa thứ gì.
    Ăn bánh xèo trong nhà mà còn phức tạp, chín người mười lăm ý, thì nói chi cuộc đời, người ta bất đồng ý kiến, goánh nhau chửi nhau như mổ bò rồi tha hồ “chụp mũ” cho nhau. Có lần đổ xong bánh, tôi bày la liệt trên kitchen counter, rồi đi dọn dẹp mọi thứ, lúc quay lại không thể nhớ dĩa nào là dĩa nào, là của ai, báo hại tôi phải mò mẫm, vạch từng cái bánh xèo ra dòm cho kỹ, xong ngồi thở hổn hển, nổi đóa tuyên bố: “Tôi thề, năm sau mới đổ lại bánh xèo”.
    Vậy mà cũng tới một năm rồi đó, là hôm nay, tôi xin dừng bài viết tại đây để đi pha bột bánh xèo nha quý vị!

—Kim Loan

(Edmonton, 9/2023)

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ".
Bài viết “Đánh Trận Là Một Nghệ Thuật” đã được đăng trên “The Journal of Military History” số 68 vào năm 2004. Đây là một quyển báo rất có uy tín của quân đội Hoa Kỳ từ năm 1937, chuyên đăng những bài nghiên cứu có giá trị về lịch sử quân đội của mọi nơi trên thế giới. Dù đã ra đời mười sáu năm, bài viết này có một giá trị lịch sử đặc biệt vì người viết đã tham khảo rất công phu nhiều tài liệu của cả Việt Nam Cộng Hòa, Hoa Kỳ và Bắc Việt. Bài viết này đã được Cố Thiếu Tướng Lê Minh Đảo, Cựu Tư Lệnh Sư Đoàn 18 Bộ Binh Việt Nam Cộng Hòa nhận định là chính xác đến 95%.
Máu đã đổ suốt từ thời chiến tranh cho tới lúc hòa bình 45 năm nay, những giọt máu của người dân trong nước khao khát nền Tự Do Dân Chủ vẫn còn chảy trong nhà tù với những bản án khắc nghiệt dành cho họ và những người đã chết đều có thật. Rất thật.
Vào sáng ngày 1 tháng 5-1975 Trung tá bác sĩ Hoàng Như Tùng, nguyên chỉ huy trưởng Quân Y viện Phan Thanh Giản - Cần Thơ, mặc đồ dân sự, trong tư thế quân phong, đưa tay lên chào vĩnh biêt Tướng Nguyễn Khoa Nam, Tư lênh Quân Đoàn IV, Quân Khu IV, Vùng 4 Chiến Thuật, trước sự kinh ngạc của một nhóm sĩ quan cấp cao của bộ đội cộng sản vì sự dũng cảm của bác sĩ Trung Tá Hoàng Như Tùng. Một sĩ quan của bộ đội cộng sản mang quân hàm thiếu tá tiến đến và yêu cầu bác sĩ Hoàng Như Tùng nhận diện Tướng Nguyễn Khoa Nam.
Dù tôi đã sống trên đất Mỹ nhiều năm rồi, nhưng thỉnh thoảng, trong giấc ngủ hằng đêm, tôi vẫn gặp ác mộng về những lần trốn chạy kinh hoàng của một người bị săn đuổi. Choàng tỉnh dậy giữa đêm, tôi nhớ lại rất rõ nét những giấc mơ vừa trải qua, mồ hôi toát ra như tắm vì tôi như vẫn còn nghe văn vẳng đâu đây tiếng kẻng báo thức rõ mồn một, tiếng kẻng của các trại giam cộng sản Việt Nam được làm bằng những cái niềng (rim) xe hơi và dùng 1 thanh sắt gõ vào tạo thành 1 âm thanh vang rất xa. Ai từng ở tù hay bị đày ra những trại cưỡng bức lao động, hoặc trại tập trung cải tạo của cộng sản Việt Nam thì không bao giờ quên được tiếng kẻng này.
46 năm sau biến cố cưỡng chiếm Hoàng Sa 1974, và 32 năm sau vụ thảm sát Gạc Ma nơi quần đảo Trường Sa 1988, cả hai đều do bàn tay vấy máu của Trung Cộng. Không chỉ bằng vũ lực, Bắc Kinh nay còn viện dẫn Công hàm 1958 của Phạm Văn Đồng ký như bằng chứng pháp lý gây khó khăn cho Việt Nam trong tranh chấp chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa
Kim lái chiếc xe Honda đi biếu cái bánh chưng cuối cùng vào lúc 7 giờ sáng ngày 30 Tết năm 1975. Tuy có bao nhiêu lần thức khuya học bài, nhưng đây là lần đầu tiên Kim thức trắng đến sáng, cái đầu nhức như búa bỗ, óc trống rỗng, người lâng lâng như muốn bay lên mây...
Mở đầu nhật ký tuần này xin được góp phần tưởng nhớ các nhân viên y tế, đặc biệt là các y tá (những thành viên trong đội ngũ thiên thần áo trắng ở tuyến đầu chống dịch bệnh Vũ Hán) ở khắp nơi trên thế giới đã "sinh nghề tử nghiệp". Tính đến đầu tháng 4 năm 2020, đã có hơn 100 "thiên thần áo trắng" qua đời vì bị lây nhiễm Coronavirus từ bệnh nhân, hơn một nửa là nhân viên y tế ở Ý.
Những dòng ký sự và nhận định sau đây, tường thuật lại những biến cố xảy ra tại Trường Y Sàigòn từ năm 1967-1971 và sau đó...do sự can thiệp của phái bộ Hội Đoàn Bác sĩ Mỹ -American Medical Association tại Saigòn (AMA-SAIGON) vào nội bộ Trường Y Saigon. Những sử liệu của bài nhận định này đều dựa trên những điều tường thuật của quyển sách thời danh SAIGON MEDICAL SCHOOL do 3 người viết: CH William Ruhe MD, Norman Hoover MD và Ira Singer PhD, tất cả ba vị này đều là nhũng người lãnh đạo và cố vấn cho cuộc can thiệp của phái bộ AMA vàoTrường Y Saigon từ năm 1967. Tập sách SAIGON MEDICAL SCHOOL do chính cơ quan AMA, xuất bản tại Mỹ năm 1988.
Dạo đó, đầu thập niên 70, dưới giàn hoa giấy, trong khoảng sân nhỏ nhà chúng tôi, thỉnh thoảng có những người lính thuộc mọi binh chủng của Quân lực VNCH. Họ ngồi hút thuốc, hay tay đàn miệng hát vì trong cư xá Đoàn Văn Cự ở Biên Hòa có khá nhiều chị đang học lớp 12 rất đẹp. Nhà chúng tôi ở đầu cư xá nên các chị thường phải đi ngang nhà chúng tôi trước khi về nhà mình.
Mẹ tôi bán thuốc tây để dành được một ít tiền cho chị em tôi đi vượt biên. Chuyến đầu mẹ cho ba chị em tôi đi nhưng bị đổ bể, đợt hai mẹ cho chị tôi đi với gia đình dì, và được Cap Anamur Đức vớt, đưa đến Đức vào năm 80. Một năm sau mẹ gửi hai anh em tôi cho cô chủ tàu ở Cần Thơ và chúng tôi được đưa lên tàu đánh cá nhỏ có 89 người.Thuyền rời bến, ngày đầu chúng tôi được phát nước uống, qua ngày thứ hai thì không còn giọt nước nào. Lúc đó vào tháng năm, nắng nóng, thuyền lại không có mui che nên ai cũng mệt lả, thuyền đông người lại quá chật hẹp không cựa quậy gì được, tôi chỉ cần nhút nhích một chút là bị người ta nhéo. Lúc đó tôi chỉ thấy chung quanh là biển rộng mênh mông, tôi nhớ nhà và cầu mong sao cho bị bắt để được về nhà lại.Trên thuyền bắt đầu có một chị bị sảng vì thiếu nước uống, rồi thì không biết ai đó lấy lon Guigoz truyền nước uống cho nhau nhưng ai hớp vô rồi cũng phun ra vì đó là nước biển, mặn quá, tôi cũng không ngoại lệ.
Trời Chicago cuối tháng Tư vẫn còn lạnh. Tuy thế anh em đi dự buổi họp điều-trị-tâp-thể đông hơn thường lệ. Nhiều anh em sĩ quan ở các nhóm khác, không phải họp hôm nay, họ cũng đến. Phòng họp dành cho buổi điều-trị-tập-thể của các anh em sĩ quan H.O. tại Asian Human Services -Chicago rộng rãi và tươm tất, được trang hoàng trang nhã với những bức tranh ấn tượng của Claude Monet, màu sắc hàì hòa gợi nhớ về một thuở thanh bình.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.