Hôm nay,  

Tạ Ơn Canada

05/10/202308:46:00(Xem: 3841)
Tùy bút

IMG_7295



Tôi réo chồng:
    – Anh ơi! Lần này em nhờ của anh góp ý để viết Thanksgiving Canada gửi đăng báo.
    – Anh biết gì mà đóng góp, ngoài cái chuyện Thanksgiving Canada rơi vào thứ hai của tuần lễ thứ hai Tháng Mười.
    – Cái đó xưa rồi, em muốn những mẩu chuyện để tỏ lòng biết ơn xứ lạnh tình nồng này.
    – Thì em tưởng tượng là ra thôi, “nghề” của em mà.
    – Không! Chuyện gì thì còn có thể hư cấu thêm mắm muối, chớ chuyện Tạ Ơn phải là người thật việc thật, của những người xung quanh hoặc của chính gia đình mình .
    – Mấy năm qua, em đã lôi hết mọi ngóc ngách của nhà mình lên báo “cho khắp người đời thóc mách xem” rồi còn gì.
    Úi dào! Tôi mỉm cười nghĩ thầm, chồng em bữa nay đem cả thơ TTKH đối đáp với em nữa cơ, chưa kịp khen thì anh ấy ra ngoài garage soạn túi đồ đánh golf  để cuối tuần đi golf trip với Cha xứ và mấy anh bạn trong nhà thờ. Tôi cũng bước ra, loay hoay tìm cái nồi cơm điện cũ để ngày mai thực tập món bánh mới học trên youtube, chồng tôi bỗng reo lên:
    – À, có chuyện cho em viết rồi đây, từ cái golf bag này nè, em nhớ ra chưa?
    Tôi nhớ ra ngay lập tức, chuyện xảy ra mới vài năm nay thôi. Sáng hôm đó cả nhà ra garage lấy xe đi học đi làm thì thấy cánh cửa phụ của garage mở toang, chứng tỏ đêm qua chúng tôi đã quên khóa. Vợ chồng con cái hoảng hốt vào lục soát xem có bị mất mát gì hay không. May quá, hai chiếc xe còn nguyên vẹn, không bị cạy cửa hay đập kiếng xe, các đồ linh tinh khác cũng không có dấu hiệu xáo trộn. Chồng tôi vui vẻ:
    – Mình ở khu này an toàn thật, em nhỉ.
    Tôi liếc chồng một cái, vì anh ấy là người đêm qua đi làm về trễ nhất:
    – Ở khu nào cũng có nguy cơ mất đồ nếu cứ lơ đãng quên đóng cửa garage như anh đấy. Hàng xóm thì ai cũng quen mặt, nhưng ai cấm mấy người lạ đi ngang qua, rồi thấy cửa mở như mời mọc, trên đời này chẳng phải ai cũng tốt cả đâu. Buổi chiều, cả nhà đang quay quần ăn cơm thì chuông điện thoại reo, chồng tôi nhanh chóng trả lời, đầu giây bên kia giới thiệu là sở cánh sát:
    – Chào Mr. Truong, nhà của anh mới bị trộm vào garage đêm qua, đúng không?
    Hơi bất ngờ, chồng tôi đáp:
    – Dạ đúng thế, nhưng may mắn là chúng tôi chẳng mất gì cả, mà sao ông biết chuyện garage nhà tôi?
    – Anh có sure là không mất một món nào không ? Còn bộ chơi golf thì sao?
    Chồng tôi vỡ lẽ, xin phép được chạy xuống basement để xem cái golf bag còn không. Bình thường thì cái golf bag để trong garage từ đầu mùa xuân, khi cần đi chơi golf lấy ra thuận tiện nhanh chóng, đến khi trời vào thu gió lạnh thì để dưới basement cho qua mùa đông, bởi vậy buổi sáng khi thấy garage bị mở toang cửa, là trời đã sang thu, nên chúng tôi vẫn yên chí  bộ golf đã nằm dưới basement, nhưng bây giờ thì rõ ràng là đã bị kẻ trộm mang ra khỏi garage. Chờ cho gia đình tôi hết chộn rộn vì còn ngỡ ngàng, chàng cảnh sát mới tiếp tục qua phone, kể lại câu chuyện cái golf bag được tìm thấy như thế nào.
    Trên đường đi tuần tra vào giờ trưa dưới phố, gần khu cầm đồ mua bán đồ cũ, chàng thấy một người đàn ông, ăn mặc bụi đời, râu ria cẩu thả, vác trên vai cái golf bag. Chàng liền suy nghĩ chớp nhoáng, một real golfer thường ăn mặc rất lịch sự, đàng hoàng, không thể nào... rách rưới tả tơi như thế, lại càng không có chuyện vác bộ golf bag lang thang sật sừ giữa phố thế này, chàng bèn rà rà xe gần người đàn ông, kéo cửa kiếng xe xuống, chào Hello rồi cười:
    – Này ông bạn, đi đánh golf hả?
    Người đàn ông giật mình khi thấy chàng “bạn dân” vui vẻ nháy mắt mà thực ra biết tỏng mọi chuyện, rồi lắp bắp:
    – À, không! Thằng bạn của tui nhờ tui đi... bán bộ golf bag này giùm hắn.
    Nghe tới đây, chàng cảnh sát dừng xe, nhảy phóc ra lề đường, đưa ra tấm thẻ Police, ra giọng nghiêm túc:
     – Đây là số phone của sở cảnh sát gần đây, tôi tạm thời xin được giữ golf bag này, làm phiền “thằng bạn” của anh đến lấy lại nha.
    Người đàn ông ngoan ngoãn vì biết không thể chống cự với chàng cảnh sát cao to, rồi trao cái golf bag cho chàng. Chàng đưa người này về đồn, điều tra thêm để tìm ra chủ nhân, nhưng bên ngoài golf bag có một ngăn nhỏ, trong đó có tấm card chơi golf của chồng tôi với đầy đủ tên, họ và số phone, chàng liền giao người đàn ông này cho chàng cảnh sát khác rồi sau đó liên lạc với chồng tôi để xem nhà tôi còn mất gì nữa không. Đối chứng lời khai với người đàn ông kia, sau đó ông ta được thả còn chồng tôi được hẹn ngày mang golf bag về nhà, coi như xong xuôi, không có chuyện gì xảy ra.
    Phải công nhận chàng cảnh sát nhanh trí, có đôi mắt quan sát “thế sự”, nếu không thì bộ golf đã  cao bay xa chạy vào tiệm cầm đồ. Chồng tôi lại hớn hở:
    – Ở cái xứ này mình đi làm đóng thuế thật đáng đồng tiền bát gạo, mình được phục vụ lại đầy đủ, công minh, hết sức trách nhiệm.
    Tôi góp lời:
    – Chứ còn gì nữa! Chuyện này mà xảy ra ở “thiên đường CSVN” thì quên đi nhe, anh sẽ vĩnh biệt golf bag không hẹn ngày tái ngộ, bởi nếu công an có bắt được kẻ gian thì cái golf bag sẽ bị sung vào “công quỹ”, mà “công quỹ” của chế độ Cộng Sản thì anh biết rồi đấy, có trời mới biết nó sẽ đi về đâu, hoặc anh có muốn lấy lại bộ golf bag cũng trần ai khoai củ, và dĩ nhiên phải tốn... phong bì nữa đấy.
    Nói tới “phong bì”, tôi nhớ ra một chuyện cũ, gần 30 năm trước, khi tôi đi sanh con gái đầu lòng. Mới sanh xong vài tiếng, cô y tá mang vào phần cơm tối theo kiểu Tây. Dĩ nhiên là tôi không ăn vì bà má chồng đã nấu cho tôi nồi thịt nạc với chả lụa kho tiêu đúng kiểu cho bà đẻ. Lát sau cô y tá vào nhắc tôi ăn, và nói thêm:
    – Hay là thức ăn không hợp khẩu vị của cô? Cái tủ lạnh ngay giữa khu Sản có nhiều món khác, cô có muốn không?
    Tôi hỏi cho biết:
    – Có phải trả tiền không cô?
    – No, no! Cô và chồng cô cứ việc lấy ăn nhé.
    Buổi tối chồng tôi đến, tôi ép anh ấy ăn đồ bệnh viện vì nó... free, kẻo phí của giời, dù anh ấy không đói bụng. Đến ngày ra về, tôi và chồng dọn dẹp lại đồ đạc, tôi nói:
    – Anh có mang phong bì tặng cho các cô y tá, hộ sinh, và bác sĩ chưa? Hai ngày qua họ phục vụ rất chu đáo, ở Việt Nam không có phong bì thì đừng hòng họ tử tế.
    Chồng tôi gạt ngay:
    – Đây là xứ dân chủ tư bản, các y tá bác sĩ làm việc với lương tâm trách nhiệm, nhà nước đã trả lương đầy đủ cho họ, em khỏi lo.
    – Nhưng ...
    – Em thấy trên tường nơi bàn tiếp khách khoa Sản chứ, họ treo các tấm thiệp cám ơn của bệnh nhân, đó chính là những món quà quý giá, nếu em muốn thì chút nữa mình mua bó hoa và tấm thiệp gửi lại cho họ.
    Tôi ngỡ mình đang  mơ vì vẫn còn ám ảnh chuyện bệnh viện ở Việt Nam. Hai vợ chồng đi bộ dọc hành lang, tôi lại chợt nhớ ra:
    – À mà quên, anh đã đóng viện phí chưa mà ung dung ra về thế này?
    Chồng tôi tỉnh bơ:
    – Khỏi cần em ạ, chính phủ đã trả hết rồi.
    Tôi vẫn chưa tỉnh mộng:
    – Anh đừng đùa em chớ, biết bao nhiêu là tiền chớ chẳng ít đâu.
    – Anh nói thật đấy, Canada có chương trình y tế toàn dân, em cứ đi từ đây ra cổng xem có ai chặn lại đòi tiền không nhé?
    Ôi, cái xứ tư bản “giẫy chết” này cho tôi hết bất ngờ này đến ngạc nhiên khác. Tôi sung sướng bước đi cùng chồng, rồi bẽn lẽn:
    – Nếu vậy, em sẽ... đẻ nữa, anh ơi!!!

 

– Kim Loan

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.