Hôm nay,  

Trăng

10/10/202313:00:00(Xem: 3086)
Tùy bút

full-moon
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi…
 
Trăng thu, màu vàng cổ tích…
    Trăng thu, màu gợi nhớ dĩ vãng. Chỉ có một màu trăng mịn đẹp và huyền ảo óng ả là màu trăng ở quê nhà Việt Nam mà thôi. Dưới ánh sáng trăng thuần túy, nhà cửa, cây cối, sóng nước, vườn hoa, công viên, bãi cát… tất cả tạo vật như được bao phủ bởi một lớp lụa mỏng màu trứng sáo. Rồi trăng thanh đến thì có gió mát, hoa lá đong đưa và ngoài sân có tiếng trẻ nhỏ cười tíu tít ngồi nghe bà kể chuyện đời xưa. « Khi ấu thơ, ngồi trong bóng trăng, nhìn theo áng mây đưa » nay lớn lên ta đã đi xa dần, xa dần mãi cái nôi của tuổi thơ, cái nôi đầy ắp bóng trăng thanh để hòa mình vào nếp sống văn minh cơ khí chan hòa ánh điện. Ở đây, chị Hằng không còn là hình ảnh âu yếm nở nụ cười với thế gian vào mỗi đêm rằm, nhất là rằm tháng 8, trung thu không mùa nữa. Chị Hằng thậm thụt ở sau vẩn mây da cá lạnh lẽo như có quỷ nhập tràng, chị Hằng thui thủi đằng sau cùng những tòa nhà cao ốc chọc trời, chị Hằng không có chỗ đứng trong lòng người khi văn minh điện hóa vùng lên và tình yêu thiên nhiên tan biến, nên chị Hằng đến lặng lẽ đi âm thầm không ai biết ai hay.
    Nhưng rồi mỗi độ thu về, không gian chớm lạnh, chúng ta không khỏi chạnh lòng nhớ tới trăng, bóng hình mà khi xưa thi nhân Lý Bạch đã say sưa nhẩy ùm xuống nước để mong tìm thấy cho được… trăng, có một thời kỳ nàng đã chiếm một địa vị độc tôn trong thi ca Trung Hoa và cả trong thi ca Việt Nam, Hàn Mạc Tử đã ca tụng trăng đồng nghĩa với yêu đương:
 
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi…
 
Trong khóm vi lau dào dạt mãi
Tiếng lòng ai nói ? Sao im đi ?
Ô kìa ! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe…
(Bẽn lẽn)
 
Hàn Mạc Tử đã mơ được “ngủ với trăng” và ông đã ngửi được mùi của trăng:
 
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng… 
 
Có lúc như cuồng si trăng, HMA đã cao to:
 
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên ước hẹn hò
 
Khi tỉnh lại, ông nhận riêng trăng của mình:
 
Trăng vàng, trăng ngọc bán sao đang
 
Cũng một vầng trăng ấy, Quang Dũng, người ở Sơn Tây, đã tả “cố quận” dưới trăng như sau:
 
Trăng sáng vẫn vờn đôi bóng cau
Ngồi đây mà gởi nhớ phương nào
Gió mát lung linh vầng bắc đẩu
Tiếng hè ếch nhái rộn bờ ao
Ngồi đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mãi tha phương
Có những chiều, chiều trăng đỉnh núi
Nhà ai chà gạo giã đêm sương
 
Em ơi, em ơi đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua vầng tóc bạc
Nẻo về cố quận nhớ thương ơi…
 
Một thi nhân khác, Yến Lan, đã mang trăng rải lên mình ngư ông bến My Lăng, đã mang trăng phủ lên mình chàng kỵ mã oai hùng dựng một cảnh uy nghi và nên thơ như cổ tích nhiệm màu:
 
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buồn câu.
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
 
Ông không muốn rung người qua tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Và đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
 
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ giải trăng trăng
Chiều nghi ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng
 
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng trăng đầy màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
 
Thi hào Nguyễn Du, trong tác phẩm bất hủ, “Đoạn Trường Tân Thanh” đã nhân cách hóa trăng, giao cho trăng một nhiệm vụ đi theo dõi nàng Kiều. Khi Kiều nặng lời thề thốt cùng Kim Trọng, vầng trăng sáng tỏ làm chứng cho đôi người trẻ:
 
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
 
Buổi tối Kiều vừa đi lễ Đạp Thanh về, vừa thổn thức vì bóng hình Kim Trọng, vừa tương tủi cho thân phận ngôi mộ Đạm Tiên, lòng Kiều đang ngổn ngang trăm mối, thì cũng bóng trăng đến, đến tò mò qua song cửa, đây không phải là bóng trăng kiểu “Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn”, mà là một óng trăng tọc mạch và hiếu kỳ, muốn chọc ghẹo tâm tư rối bời của Thúy Kiều:
 
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấm nước cây lồng bóng sân…
 
Rồi khi đêm đã khuya, Kiều đánh bạo lẻn sang nhà Kim Trọng, vầng trăng đồng lõa:
 
Tiêng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
 
Qua bao nhiêu trôi nổi lặn lội, Kiều về sống với Thúc Sinh như vợ chồng, khi người chồng ra đi, nàng ở lại, nàng nhớ thương và tưởng chừng:
 
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm đường.
 
Ở điểm này Nguyễn Du và Hàn Mạc Tử gặp nhau:
 
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi.
(Một nửa trăng) – HMT
 
Đó là những vầng trăng rung động của thi nhân. Và vầng trăng còn là một cái gì thật gần gũi với đời sống trẻ thơ Việt Nam, trong “trăng rằm quê ngoại”, Kiên Giang đã hứa hẹn qua lời mẹ ru con:
 
Con ơi con ngủ cho say
Đợi phiên đò chót mẹ đi chợ Đồng.
Mẹ tìm hoa tím, hoa hồng
Tối nay mẹ phất đèn lồng trung thu.
 
Trẻ em Việt Nam mà nghe phất đèn lồng trung thu thì đứa nào đứa nấy mừng lắm, mừng đến nỗi bỏ cả ăn cơm. Tại vì đấy là rằm tháng tám là tết nhi đồng. Tết nhi đồng trẻ con sẽ có lồng đèn đủ thứ con, đèn con cá, đèn con thỏ, đèn con gà, đèn ông sao, đèn bươm bướm… Chúng sẽ có bánh trung thu, bánh dẻo, bánh nướng ăn ngon miệng, chúng sẽ tung tăng nối đuôi nhau rước đèn và cùng nhau hát vang:
 
Tít trên cao dáng tròn xinh xinh
Soi xuống trần ánh sáng dịu dàng
Rằm tháng tám bóng trăng trong sáng
Em múa ca vui đón chị Hằng
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh !
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh !
Em rước đèn này đến cung trăng.
 
Ở Việt Nam, gần trung thu, làm cha mẹ ai cũng lo chuẩn bị mua đèn mua bánh cho con, ai không có cho con thì tự coi như thiếu bổn phận. Nhà văn Tả Châu Vũ Trọng Phụng, đến lúc lìa đời, ông cứ ấm ức mãi: “Con tôi nó chỉ ao ước có mỗi một cái lồng đèn con cá mà tôi cũng không mua nổi cho nó.” Nhà văn Việt Nam đa số khi nào cũng nghèo.
    Tôi chạnh lòng nghĩ về ông Vũ Trọng Phụng. Làm cha mẹ, ai cũng thông cảm nỗi buồn không có tiền mua đèn trung thu cho con. Ông không gặp thời, ông sinh ra quá sớm và thời vận mạng của ông đã qua đi.
 

– Chúc Thanh

(Paris, 9/2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế là một ngày đẹp trời y bỗng nảy ra ý nghĩ: "Sao mình không thử làm văn sĩ?”, nói là làm ngay. Y vội lấy giấy bút và ngồi vào bàn hẳn hoi. Y lại nghĩ: "Phàm làm việc gì cũng phải có lễ, khai trương bá cáo cho thiên hạ biết, huống chi đây là việc quan trọng của đời người và còn ảnh hưởng đến đời sau”, nghĩ thế bèn đứng lên chỉnh sửa y phục thẳng thớm trang nghiêm, chải tóc, rửa mặt cho trông dễ coi một tí,
Cái thằng trông như một xác chết. Hay nó chính là xác chết vừa đội mồ sống dậy. Nhìn nó không khác gì một con zombie thường thấy trên ti vi. Cái mặt đờ đẫn, chân tay lỏng khỏng, áo quần rộng thùng thình. Vậy mà nó lại quàng được vai một đứa con gái. Một đứa con gái thấp hơn nó một nửa cái đầu. Rõ ràng là một đứa con gái. Một đứa con gái Á Châu. Tóc ngắn tua tủa trộn ba màu đen, đỏ, vàng. Mắt to kẻ viền đen. Cặp vai trần trắng muốt, hai vòm ngực đội cao nếp áo thun đen. Hai đứa nhùng nhằng bước vào tiệm. Vào hẳn trong tiệm rồi, chẳng thèm chào hỏi ai, thằng thanh niên ôm con nhỏ, cúi xuống, dán môi nó lên môi con nhỏ, mút và kéo môi dưới đứa con gái dài ra, để tuột ra cái âm thanh chùn chụt.
Tôi được phái đi công tác trong chiến dịch OIR, Operation Inherent Resolve, ở Tây Bắc Iraq, đúng vào những tháng Hè nóng oi bức như đổ lửa. Những cơn mưa ở đây không bao giờ xảy ra vào mùa Hè, chỉ vài cơn mưa rào vào mùa Đông, nên không khí như đặc quánh lại, nóng nung người và bụi tung trời.
Trong khi Quỳnh thả hồn theo tình ca Bóng Chiều Xưa của Dương-Thiệu-Tước, Đằng tần ngần nhìn theo nàng. Khi chiếc SUV của Quỳnh lăn bánh, Đằng thở dài, chợt nhớ một câu rất ý nghĩa để tự xoa dịu tự ái của chàng: “If you love something, set it free. If it comes back, it is yours. If it doesn’t, it never was.”
Trằn trọc trở mình mãi mà không ngủ được, mắt nhắm nghiền, các bộ phận khác như tim. gan, phổi, dạ dày… đều lắng yên, duy chỉ có bộ óc thì không nghỉ, thậm chí nó còn tăng cường mạnh hơn. Bao nhiêu ý tưởng ùn ùn trồi lên như mối ùn ổ. Những cảnh tượng huyễn hoặc hay thực tế cứ loang loáng xuất hiện rồi tan biến tựa như hoạt cảnh trên màn ảnh truyền hình. Y cố định tâm như cách các tu sĩ, nào là niệm Phật, trì chú, quán hơi thở… nhưng chẳng ăn thua gì.
“Hình con gái ông phải không?” Bà cụ người da trắng ngồi bên cạnh hắn lên tiếng hỏi. Hắn giật mình, sửa vội lại thế ngồi cho ngay ngắn, bàn tay phản ứng bằng cách gấp vội cuốn sách lại như lúc bị bắt gặp nhìn trộm một tấm hình khiêu dâm, rồi bối rối mở rộng trang sách, cho tấm hình trải rộng ra trước mặt hai người. Hắn bẽn lẽn quay qua nhìn bà cụ. “Sao bà lại nghĩ đó là hình con gái tôi?”
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà lại không bình thường nếu người trong cuộc không có tên là Thomas Jefferson. Đó là một buổi chiều mùa đông lạnh giá tại miền Bắc Virginia. Con đường hun hút không một bóng người, dẫn tới bờ sông dòng nước hung hãn chảy xiết là nỗi tuyệt vọng của một lão ông đơn độc, đang nhìn thấy thần chết mỗi lúc mỗi đến gần.
Tôi là một nhân viên dân sự hay đi công tác xa nhà để hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị lính chiến Mỹ đóng đồn ở các nơi tiền tuyến xa xôi, nguy hiểm, và gian khổ như Iraq, Afghanistan, Châu Phi. Dĩ nhiên khi sống trong các trại lính, tôi cũng phải sống kỷ luật như lính và đương nhiên ăn, ngủ trong lều bạt cũng như lính. Không có một sự ưu đãi nào hơn lính. Hôm nay tôi kể bạn nghe về việc ăn và uống của họ khi được ăn những bữa ăn nóng hổi hoặc khi phải nhai lương khô, để bạn thấy được khi xa nhà, họ nhớ và thèm đến thế nào những bữa ăn bốc khói ngon lành của mẹ, của vợ nấu khi ngồi quây quần chung quanh bàn ăn gia đình dưới ánh đèn ấm áp tràn đầy tiếng cười vui. Thuở xa xưa khi quân đội còn chiến đấu bằng vũ khí thô sơ như gươm giáo, cung nỏ, bất cứ đoàn quân nào, khi chinh chiến xa, chỉ có xe lừa, ngựa chuyên chở chậm chạp, người chỉ huy đều phải tính sao cho có đủ lương thực nuôi quân thì mới mong đánh thắng được kẻ thù. Mỗi người lính ngày xưa chỉ đem theo mình cao lắm là khoảng
New York City đang dần dần hồi sinh. Tháng Tám nầy sẽ có “home coming concert” ở Central Park để ăn mừng, nghe đâu có mời Simon và rất nhiều người tiếng tăm khác.
Châu Về Hợp Phổ - đó là câu nói của Bs Nguyễn Đức Tùng, khi ông có nhã ý trao tặng bức tranh khảm xà cừ để chúng tôi đưa về Mẹ tôi. Chúng tôi thoạt đầu rất áy náy nhưng khi hiểu rõ câu nói và tấm chân tình của ông thì hân hạnh và cảm động được làm người nối tiếp cuộc hành trình 50 năm của bức tranh hy hữu. Bên dưới góc phải của bức tranh là tấm bảng nhỏ ghi tên người tặng là Ba tôi, đại tá Nguyễn Ngọc Khôi đang trong chức vụ thị trưởng Đà Nẵng và người nhận là trung tướng Donn J. Robertson, thuộc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Người đáng sợ hơn ma, chỉ có người mới sân hận thù ghét, chỉ có người mới đâm bị thóc thọc bị gạo, dèm pha phỉ báng; cũng chỉ có người mới tham lam tranh đoạt bằng mọi giá và cũng chỉ có người mới chơi đểu, chơi dơ, chơi xấu... Người hại người mới ghê gớm và tàn bạo.
Anh đậu xe trước chung cư, đèn khẩn cấp nhấp nháy đều đặn. Năm phút rưỡi chờ đợi. Những người qua lại nhìn anh. Những cái nhìn tọc mạch, xét nét. Bốn giờ ba mươi sáu phút, bóng em lấp ló ngoài khung cửa. Mắt em dừng lại ở xe anh. Trời lạnh. Em mặc áo da trông ấm cúng lạ thường. Nhưng anh không cảm thấy thèm được ôm chầm lấy em để hơi ấm hai thân thể hòa lẫn trong nhau như thuở trước. Em thong thả bước xuống những bậc thang xi măng ẩm ướt. Một chiếc xe van dừng lại phía sau anh. Những đầu tóc mầu đen rối bù ló ra khung cửa. Rồi những bàn chân da vàng khẳng khiu bước xuống xe, tất tả. Tiếng cười đùa, gọi nhau ơi ới vang cả một góc đường. Em luống cuống mở cửa xe. Em chào anh. Vẫn giọng nói thì thầm như hơi thở độ nào. Anh cố cười thật tươi đáp lại.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.