Hôm nay,  

Trăng

10/10/202313:00:00(Xem: 3143)
Tùy bút

full-moon
Hỡi cô tát nước bên đàng,
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi…
 
Trăng thu, màu vàng cổ tích…
    Trăng thu, màu gợi nhớ dĩ vãng. Chỉ có một màu trăng mịn đẹp và huyền ảo óng ả là màu trăng ở quê nhà Việt Nam mà thôi. Dưới ánh sáng trăng thuần túy, nhà cửa, cây cối, sóng nước, vườn hoa, công viên, bãi cát… tất cả tạo vật như được bao phủ bởi một lớp lụa mỏng màu trứng sáo. Rồi trăng thanh đến thì có gió mát, hoa lá đong đưa và ngoài sân có tiếng trẻ nhỏ cười tíu tít ngồi nghe bà kể chuyện đời xưa. « Khi ấu thơ, ngồi trong bóng trăng, nhìn theo áng mây đưa » nay lớn lên ta đã đi xa dần, xa dần mãi cái nôi của tuổi thơ, cái nôi đầy ắp bóng trăng thanh để hòa mình vào nếp sống văn minh cơ khí chan hòa ánh điện. Ở đây, chị Hằng không còn là hình ảnh âu yếm nở nụ cười với thế gian vào mỗi đêm rằm, nhất là rằm tháng 8, trung thu không mùa nữa. Chị Hằng thậm thụt ở sau vẩn mây da cá lạnh lẽo như có quỷ nhập tràng, chị Hằng thui thủi đằng sau cùng những tòa nhà cao ốc chọc trời, chị Hằng không có chỗ đứng trong lòng người khi văn minh điện hóa vùng lên và tình yêu thiên nhiên tan biến, nên chị Hằng đến lặng lẽ đi âm thầm không ai biết ai hay.
    Nhưng rồi mỗi độ thu về, không gian chớm lạnh, chúng ta không khỏi chạnh lòng nhớ tới trăng, bóng hình mà khi xưa thi nhân Lý Bạch đã say sưa nhẩy ùm xuống nước để mong tìm thấy cho được… trăng, có một thời kỳ nàng đã chiếm một địa vị độc tôn trong thi ca Trung Hoa và cả trong thi ca Việt Nam, Hàn Mạc Tử đã ca tụng trăng đồng nghĩa với yêu đương:
 
Trăng nằm sóng soãi trên cành liễu
Đợi gió đông về để lả lơi…
Hoa lá ngây tình không muốn động
Lòng em hồi hộp chị Hằng ơi…
 
Trong khóm vi lau dào dạt mãi
Tiếng lòng ai nói ? Sao im đi ?
Ô kìa ! Bóng nguyệt trần truồng tắm
Lộ cái khuôn vàng dưới đáy khe…
(Bẽn lẽn)
 
Hàn Mạc Tử đã mơ được “ngủ với trăng” và ông đã ngửi được mùi của trăng:
 
Thơ em cũng giống lòng em vậy
Là nghĩa thơm tho như ánh trăng… 
 
Có lúc như cuồng si trăng, HMA đã cao to:
 
Ai mua trăng tôi bán trăng cho
Không bán đoàn viên ước hẹn hò
 
Khi tỉnh lại, ông nhận riêng trăng của mình:
 
Trăng vàng, trăng ngọc bán sao đang
 
Cũng một vầng trăng ấy, Quang Dũng, người ở Sơn Tây, đã tả “cố quận” dưới trăng như sau:
 
Trăng sáng vẫn vờn đôi bóng cau
Ngồi đây mà gởi nhớ phương nào
Gió mát lung linh vầng bắc đẩu
Tiếng hè ếch nhái rộn bờ ao
Ngồi đây năm năm miền ly hương
Quê người đôi gót mãi tha phương
Có những chiều, chiều trăng đỉnh núi
Nhà ai chà gạo giã đêm sương
 
Em ơi, em ơi đêm dần vơi
Trông về phương ấy ngóng trông người
Trăng có soi qua vầng tóc bạc
Nẻo về cố quận nhớ thương ơi…
 
Một thi nhân khác, Yến Lan, đã mang trăng rải lên mình ngư ông bến My Lăng, đã mang trăng phủ lên mình chàng kỵ mã oai hùng dựng một cảnh uy nghi và nên thơ như cổ tích nhiệm màu:
 
Bến My Lăng nằm không, thuyền đợi khách,
Rượu hết rồi, ông lái chẳng buồn câu.
Trăng thì đầy, rơi vàng trên mặt sách,
Ông lái buồn để gió lén mơn râu.
 
Ông không muốn rung người qua tiếng địch,
Chở mãi hồn lên tắm bến trăng cao.
Và đìu hiu, đìu hiu trời tĩnh mịch,
Trời võ vàng, trời thiếu những vì sao.
 
Trôi quanh thuyền những lá vàng quá lạnh
Tơ vương trời nhưng chỉ giải trăng trăng
Chiều nghi ngút dài trôi về nẻo quạnh
Để đêm buồn vây phủ bến My Lăng
 
Nhưng đêm kia đến một chàng kỵ mã,
Nhúng trăng đầy màu áo ngọc lưu ly.
Chàng gọi đò, gọi đò như hối hả,
Sợ trăng vàng rơi khuất lối chưa đi.
 
Thi hào Nguyễn Du, trong tác phẩm bất hủ, “Đoạn Trường Tân Thanh” đã nhân cách hóa trăng, giao cho trăng một nhiệm vụ đi theo dõi nàng Kiều. Khi Kiều nặng lời thề thốt cùng Kim Trọng, vầng trăng sáng tỏ làm chứng cho đôi người trẻ:
 
Vầng trăng vằng vặc giữa trời
Đinh ninh hai miệng một lời song song.
 
Buổi tối Kiều vừa đi lễ Đạp Thanh về, vừa thổn thức vì bóng hình Kim Trọng, vừa tương tủi cho thân phận ngôi mộ Đạm Tiên, lòng Kiều đang ngổn ngang trăm mối, thì cũng bóng trăng đến, đến tò mò qua song cửa, đây không phải là bóng trăng kiểu “Thị tại môn tiền náo, Nguyệt lai môn hạ nhàn”, mà là một óng trăng tọc mạch và hiếu kỳ, muốn chọc ghẹo tâm tư rối bời của Thúy Kiều:
 
Gương nga chênh chếch dòm song,
Vàng gieo ngấm nước cây lồng bóng sân…
 
Rồi khi đêm đã khuya, Kiều đánh bạo lẻn sang nhà Kim Trọng, vầng trăng đồng lõa:
 
Tiêng sen sẽ động giấc hòe,
Bóng trăng đã xế hoa lê lại gần.
 
Qua bao nhiêu trôi nổi lặn lội, Kiều về sống với Thúc Sinh như vợ chồng, khi người chồng ra đi, nàng ở lại, nàng nhớ thương và tưởng chừng:
 
Vầng trăng ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc nửa soi dặm đường.
 
Ở điểm này Nguyễn Du và Hàn Mạc Tử gặp nhau:
 
Hôm nay có một nửa trăng thôi
Một nửa trăng ai cắn vỡ rồi
Ta nhớ mình xa thương đứt ruột
Gió làm nên tội buổi chia phôi.
(Một nửa trăng) – HMT
 
Đó là những vầng trăng rung động của thi nhân. Và vầng trăng còn là một cái gì thật gần gũi với đời sống trẻ thơ Việt Nam, trong “trăng rằm quê ngoại”, Kiên Giang đã hứa hẹn qua lời mẹ ru con:
 
Con ơi con ngủ cho say
Đợi phiên đò chót mẹ đi chợ Đồng.
Mẹ tìm hoa tím, hoa hồng
Tối nay mẹ phất đèn lồng trung thu.
 
Trẻ em Việt Nam mà nghe phất đèn lồng trung thu thì đứa nào đứa nấy mừng lắm, mừng đến nỗi bỏ cả ăn cơm. Tại vì đấy là rằm tháng tám là tết nhi đồng. Tết nhi đồng trẻ con sẽ có lồng đèn đủ thứ con, đèn con cá, đèn con thỏ, đèn con gà, đèn ông sao, đèn bươm bướm… Chúng sẽ có bánh trung thu, bánh dẻo, bánh nướng ăn ngon miệng, chúng sẽ tung tăng nối đuôi nhau rước đèn và cùng nhau hát vang:
 
Tít trên cao dáng tròn xinh xinh
Soi xuống trần ánh sáng dịu dàng
Rằm tháng tám bóng trăng trong sáng
Em múa ca vui đón chị Hằng
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh !
Tùng dinh dinh cắc tùng dinh dinh !
Em rước đèn này đến cung trăng.
 
Ở Việt Nam, gần trung thu, làm cha mẹ ai cũng lo chuẩn bị mua đèn mua bánh cho con, ai không có cho con thì tự coi như thiếu bổn phận. Nhà văn Tả Châu Vũ Trọng Phụng, đến lúc lìa đời, ông cứ ấm ức mãi: “Con tôi nó chỉ ao ước có mỗi một cái lồng đèn con cá mà tôi cũng không mua nổi cho nó.” Nhà văn Việt Nam đa số khi nào cũng nghèo.
    Tôi chạnh lòng nghĩ về ông Vũ Trọng Phụng. Làm cha mẹ, ai cũng thông cảm nỗi buồn không có tiền mua đèn trung thu cho con. Ông không gặp thời, ông sinh ra quá sớm và thời vận mạng của ông đã qua đi.
 

– Chúc Thanh

(Paris, 9/2023)

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Cứ mỗi khi nhìn trời mưa bên đây, tôi lại nhớ về mưa quê nhà, mưa trong ngõ hẻm nhà mình...
Khi chúng tôi được vô lớp học của thầy thì thầy chúng tôi đã cao tuổi rồi, lúc đó, khoảng năm 1965-1970 thầy đã trong, ngoài 60 tuổi. Với cái tuổi gọi là nhi nhĩ thuận đó, thầy tôi còn rất vui vẻ, phong độ uy nghi, đĩnh đạc và sức khỏe tốt. Tứ thời thầy mặc bộ complet đen tươm tất và tay sách cặp da đi dậy học, phía trong áo gilet, thầy cài đủ thứ bút viết, viết bic xanh, đỏ, bút máy, viết chì… để tùy nghi sử dụng và có ngay...
Bắc thang lên hỏi tận trời / Hỏi sao Cuội phải ấp cây cả đời / Cuội nghe thấy nói Cuội cười / Bởi hay nói dối nên ngồi gốc cây...
Ôi, bao nhiêu thứ vặt vãnh của cuộc sống đang về hùa nhau làm khổ thân tôi. Những ngày hạnh phúc xưa tôi nào biết cuộc đời có nhiều cái khổ như thế...
Quán đông. Ông khách nhìn quanh tìm chỗ. Tất cả mọi bàn đều có người ngồi. Chỉ riêng bàn tôi là còn dư một chỗ, bởi tôi có một mình. Người hầu bàn đi tới đi lui, ngóng cao cổ, tìm chỗ cho khách. Vẻ bối rối của anh ta gián tiếp nhắc khách ăn mau hơn để nhường chỗ cho những kẻ còn đang đói lòng. Người hầu bàn nhìn tôi, thoáng nét trông đợi. Mới gọi đĩa cơm, tôi không thể nào ăn hết trong vòng năm phút. Tôi nhìn người đàn ông. Tóc húi cua, lấm tấm những chân tóc muối tiêu. Thân thể gầy gò. Hai gò má nhô cao. Đôi mắt sáng. Vài sợi râu lún phún dưới cằm. Tôi ngước nhìn người hầu bàn và chỉ vào chiếc ghế trống trước mặt. “Nếu bác ấy muốn ngồi đây thì cứ tự nhiên. Tôi chỉ có một mình.”
Tin hoàng hậu Ma Gia đã hạ sanh con trai ở vườn Lâm Tỳ Ni bay về thành Ca Tỳ La Vệ làm cho cả hoàng tộc hớn hở vui mừng. Dân chúng trong thành cũng vui như thể đó là người của nhà mình, những đám đông dổ ra đường nhảy múa reo hò, những nhóm người tụ tập ở các đền thờ để tạ ơn thần Brahma...
Cái ổ gà ấy tôi quý lắm, bây giờ nhớ lại vẫn quý mà mơ hồ như những chú gà con mới nở, đẹp như những nắm bông gòn, tròn trịa, trắng tinh ấy vẫn còn loanh quanh luẩn quẩn xung quanh tôi, kêu chiếp chiếp...
Tôi đến thăm nghĩa trang vào lúc trời đã ngả về chiều. Nghĩa trang của dòng tộc tôi nằm sát chân núi Cà Đú, một rặng núi cuối cùng của dãy Trường Sơn, nằm về phía Bắc thị xã Phan Rang chừng 10 cây số...
Tiếng Mẹ nghe sao mà cao thượng, sao mà ý nghĩa vô cùng! Một người Mẹ luôn là một kho tàng được ẩn kín, như tất cả những điều quý báu nhất trên đời...
Mỗi khi tay tôi bị thương, hoặc bị nóng lạnh, khi tôi vuốt ve gương mặt các con hoặc người bạn đời của mình, tôi nghĩ đến Ngoại tôi...
Chưa đến ba mươi tuổi, một nách hai đứa con thơ, theo Ba, Mạ phải xa Huế. Từ đó, hơn nửa thế kỷ qua cho đến khi lìa đời, Mạ xuôi Nam, rồi sang Đức. Suốt mấy chục năm, Mạ chỉ còn những lần về Huế đôi ba ngày ngắn ngủi thăm gia đình, chứ Mạ không còn được sống ở Huế nữa...
Một người bạn tôi vừa mới mất mẹ. Mẹ anh đã thọ được 75 tuổi và có lẽ sẽ sống thêm vài năm nữa nếu bà không mắc phải căn bệnh tiểu đường dai dẳng. Trong những bức điện thư gửi cho tôi, anh biểu lộ một tâm trạng rất chán nản, buồn rầu. Thậm chí anh quyết định ngưng một số công việc thường ngày liên quan đến sách vở viết lách mà anh xem đó như là những khoảnh khắc hoàn toàn thoát tục, giúp anh tạm quên mọi phiền toái của cuộc sống...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.