Hôm nay,  

Cu ky Ba Thới

25/10/202309:15:00(Xem: 2651)
Truyện

Nam Bộ

Nhà Ba Thới ở trong khu vườn rộng. Hồi đó, khi còn cha, cha thường hay mời ban hội đồng về chè chén suốt, nên vui, lúc nào cũng có tiếng cười, tiếng chạm ly leng keng. Thế mà khi cha chết đi, nhà có 5 anh chị em, tự nhiên, lại xa rời nhau. Mỗi người em làm nhà trên một khoảng đất được chia. Bên này ngó qua bên kia thông thống. Mà nhà ai nấy ở, đèn ai nấy sáng, đi ra ngoài gặp nhau ngó lơ, không cười một cái, từ mấy chục năm nay.
    Ba Thới là con trai cả nên được ở ngôi nhà ngói chính. Căn nhà xây cũng được hơn cả trăm năm, từ ông cố nào đó để lại, đến đời cha, căn nhà vẫn bền vững, nhưng đến đời Ba Thới thì bắt đầu oải, sụt lỡ, mục nát. Mái ngói sụp xuống một bên, mưa giọt lỗ chỗ. Ba Thới không lợp lại vì có tiền đâu mà lợp, nên càng ngày mái ngói càng sệ, khiến những người bạn đến chơi, không ai giám đi ngang dưới chỗ ngói sệ, sợ ngói rớt trúng đầu, bị thương, chảy máu, thì biết đền ai.
    Chị Thoàn vợ Ba Thới ở trên xóm Gò Giai. Thoàn học tiểu học cùng Ba Thới tại trường An Mỹ Hạ. Ba Thới học tên Thoàn một lớp. Quen nhau biết mặt nhau, thế thôi. Lúc đó, thời tiểu học, cô bé, cậu bé nào đi học cũng chỉ lo hết giờ tan lớp thì chạy u về nhà lo lùa bò ra đồng ăn cỏ, hay đi câu cá, bắn chim. Chuyện nghĩ đến nhau là không có, vì trái ớt và con bướm của tụi nó còn nhỏ híu, non tơ.
    Đến năm Ba Thới hai mươi mốt tuổi, cha thúc lấy vợ, mi đã lớn sộ rồi, lo kiếm vợ đi, mi thấy con nào được là tau đi nói cho. Ba Thới ú ớ. Tìm kiếm ai đây? Ba Thới cũng có vài mối tình vụn ở xóm vạn đò. Con gái vạn đò ngủ trên ghe suốt năm suốt tháng. Con Thuyết, con Lài, con Tưởng. Đi hỏi mấy con này chắc cha không chịu. Ai lại lấy gái vạn đò không có miếng đất chọi chim. Ba Thới nghĩ vậy nên nói với cha. Con biết ai đâu mà kiếm cha. Cha nói, mi kiếm không được để tau kiếm cho. Thế là cha hỏi ông Tân, người bạn cùng làm hội đồng với cha ở trên xóm Thạnh Mỹ, ông biết có đứa con gái nào bà con với ông cũng được, để tui đi nói cho thằng Ba. Ông Tân suy nghĩ trong đầu, rồi gục gặc, có con Thoàn, con anh hai tui, mươi chín tuổi, trình độ tiểu học. Để tui giới thiệu con nớ về làm dâu ông, được không?
    Thế là Thoàn về làm dâu nhà cha. Ba Thới chấp nhận, vì hồi tiểu học hai đứa đã nhìn biết nhau rồi. Cũng tạm gọi là cố nhân. Cặp vợ chồng sống vui, sống hạnh phúc, suốt mấy chục năm. Tuy không tình tứ như những bản nhạc tình sến sịa, ca tụng tình lúa duyên trăng, trăng rụng xuống cầu, chỉ hai đứa mình thôi nhé. Hai vợ chồng chỉ nói đến việc làm ruộng, cày sâu cuốc bẩm. Sau ngày cha chết rồi đến ngày trời sụp, Ba Thới lại càng ít nói hơn. Đi làm ruộng quanh năm suốt tháng, sáng ra đồng, chiều ra đồng, cày cày, cuốc cuốc...mãi miết như thế, mà chỉ đủ ăn. Lại còn nuôi hai đứa con, một trai một gái, đang đi học, trung học rồi đại học ở tận thành phố xa. Mỗi lần như vậy hai vợ chồng lo gom lúa, thuốc lá, đậu xanh, đậu đen, bán ra lấy tiền để tuần sau thằng hai Lâm về lấy, nó đã nhắn về rồi, không có tiền nó buồn tội nghiệp.
    Rồi đến con Hà cũng đi học xa, vợ chồng Ba Thới lại gom góp tiền cho nó học sư phạm. Cho nên làm mùa, cứ mùa nào phủi lủm ngày đó. Vậy giấc mộng mua chiếc xe gắn máy chạy cả chục năm rồi, nung nấu trong lòng Ba Thới, vẫn chưa thực hiện được. Vẫn chạy chiếc xe đạp đi làm đồng, đi công chuyện, đi thăm bà con, đều dùng con ngựa trời ngóng cổ mà thôi.
    Hai vợ chồng nói vậy chứ cũng có những ngày tháng đẹp, thơ mộng. Nhất là những buổi tối sáng trăng. Trăng nằm trên tầng mây xanh cao chót vót nhả những luồng ánh sáng vàng ròng xuống dãi sân gạch rộng. Hai vợ chồng trải chiếu ra nằm ngắm trăng. Trời ban ngày nắng và nóng làm con người ai cũng khô rang, nhưng buổi tối lại hiền hòa mát mẽ, nhờ những cơn gió thổi qua khu đồng Đất, qua con suối Trà, qua đồng ruộng rộc trước sân nhà, rồi len lỏi qua hàng rào, vào sân, có hai vợ chồng Ba Thới nằm, mát rượi.
    Một cảnh tượng hạnh phúc thường có ở vùng quê. Hai vợ chồng trải chiếu ngắm trăng. Thoàn nằm gối đầu lên đùi Ba Thới, anh thấy không, ông trăng đang nhìn mình kìa. Ba Thới xoa tóc vợ, nhìn thì nhìn chứ mình sợ gì, có lén lút gì đâu? Thoàn đưa tay xoa bóp tấm lưng to bè của chồng, cô vừa xoa vừa bóp, vừa thọc lét, khiến Ba Thới mắc cười, cười lên ồ ồ, nhột tau quá mi, mi bóp nhẹ thôi. Thì ông cúi sát xuống đây tui mới bóp cho ông được. Ba Thới cúi sát người xuống, Thoàn trườn người lên quá lưng, véo một cái đau điếng, Ba Thới la lên, đau tau quá mi. Ba Thơi kêu ré.
    Thoàn nói, ông la lớn quá, để tụi nhỏ còn học bài. Lúc này Ba Thới mới nhớ có hai đứa con đang học bài trong nhà. (Ở một vùng quê mà tiếng gọi tau, mi, giữa đôi vợ chồng, coi như là thường yêu, thì nó cũng có nghĩa như anh anh, em em vậy). Đó là những ngày hạnh phúc nhất của Ba Thới và Thoàn.
    Dù nghèo mà vui hỡi ai không hé môi cười.
 
***
 
Một buổi sáng như bao buổi sáng khác, Thoàn đạp xe xuống chợ Vạn mua đồ. Vừa thu hoạch xong, hai vợ chồng sau khi chi tiêu, suy nghĩ cho con ăn học ở xứ Đà cũng tốn bộn. Nhưng tốn kém bao nhiêu cũng cho tụi nó ăn học đến nơi đến chốn. Còn dư lại một ít, Thoàn định xuống chợ Vạn mua chút đồ dùng, trước nhất là mua cho Ba Thới chiếc áo sơ mi coi được được, chứ Ba Thới bận chiếc áo cũ hoài trông lam lũ quá. Rồi sẽ mua thêm cho Ba Thới đôi giép sa bô, cho anh diện khi đi đến nhà bạn. Rồi Thoàn cũng định mua cho mình chiếc quần lãnh đen, cái áo bà ba màu gụ mỹ á. Thoàn dự tính trong đầu hết rồi, đã lên kế hoạch hết rồi, chỉ còn đạp xe một mạch xuống chợ Mai. Gởi xe đạp ở chợ Mai, Thoàn len lách vào đám đông, cô mua nhanh và gọn, chớ để Ba Thơi chờ cơm ở nhà Thoàn cảm thấy thương.
    Xe đạp chạy vù vù về đến xóm Kỳ, chỉ còn quẹo trái lên đường tỉnh lộ là bon bon đến nhà, vì đường từ xóm Kỳ lên xóm Phước, con đường huyết mạch lưu thông các xã lân cận với nhau, tất cả đều đổ xuống chợ Vạn theo con đường này. Bỗng đâu từ sau, Thoàn nghe một cái rầm. Cái rầm của chiếc xe gắn máy tông mạnh vào đít chiếc xe đạp của Thoàn. Cú húc quá mạnh của một tên học sinh trường tỉnh, con ông cháu cha, chạy thục mạng. Tay học sinh lạn lách tránh chiếc xe đò đi ngược, nên lạc tay lái, tông vào Thoàn. Thoàn ngã nằm xuôi theo chiếc xe, đầu đập mạnh xuống hòn đá ba lác dưới đường, chết ngay tại chỗ. Áo quần Thoàn mua sắm cho gia đình đổ tung tóe vung vải khắp nơi.
    Người đi đường thấy vậy liền kêu xe cứu thương. Họ chở Thoàn vào bịnh viện đa khoa, nhưng đã trễ. Ba Thới hớt hải chạy vào, thấy vợ nằm im dưới tấm ra trắng che kín mặt. Ba Thới khóc rúc lên từng hồi. Tiếng khóc của người đàn ông khóc vợ chết bất ngờ, thật đáng thương, bi thảm quá!
    Chôn cất vợ xong, Ba Thới tĩnh người lại một chút, anh biết mình đứng trước một vực thẳm vô hình sâu hun hút. Hai đứa con từ phố thị xứ  Đà trở về khóc mẹ. Khóc thảm thiết, khóc lăn lộn trước khi quan tài hạ huyệt. Nhưng rồi tụi nhóc cũng phải về nơi cũ lo học hành, chỉ còn lại Ba Thới với căn nhà rộng-thênh-thang-đầy-mối-mọt-rêu-cỏ-xanh-rì.
    Ba Thới ngơ ngác, đi hết nơi này đến nơi khác, đúng là người mất hồn. Chỗ nào có đông người là Ba Thới tấp vô, anh Ba vô chơi, buồn quá hả anh Ba, cô Ba thiệt vắn số, cái rủi ro quá nghiệt, anh Ba há! Ba Thới không trả lời trả vốn. Trong cuộc rượu của mọi người, Ba Thới cầm chai rượu lên rót vào một ly không, rồi nốc cạn. Ba Thới im lặng như pho tượng. Không một lời nói, không một nụ cười, chỉ khi ly rượu xoay vòng đến phiên Ba Thới, anh lại uống một ly đầy, uống cạn, lại rót một ly nữa, một ly nữa. Đám bạn nhìn Ba Thới thương tâm. Cuối cùng Ba Thới xuệnh xuạng bước ra đường, nhảy lên xe đạp chạy vòng vo về căn nhà mốc thếch của mình, cũng hơn một tiếng đồng hồ, vì đi lòng vòng mãi.  Về là leo lên võng ngủ khò.
    Chỗ của Ba Thới ngủ, bên trên có treo một tấm hình của Thoàn. Thoàn bận áo dài xanh da trời trông quê quê nhưng đẹp. Tấm hình màu mà nay đã nhợt nhạt, gần biến thành hình trắng đen. Một bình cắm nhang đặt trên cái bàn cao sát tường. Mỗi-sáng-mỗi-chiều-mỗi-tối, Ba Thới thắp hương đều chi trước di ảnh của Thoàn, người vợ đầu gối tay ấp mấy mươi năm. Bây giờ xa quá rồi em hỉ! Anh nhớ em lắm. Sao em bỏ anh mà đi. Thoàn ơi! Thoàn ơi! Ba Thới khóc lên hồng hộng.
    Ba Thới sống cu ki một mình suốt từ đó, năm năm rồi, tóc đã bạc nhiều. Anh bước qua tuổi bảy ba. Ba Thới-khóc-vợ-hằng-ngày-hằng-đêm-hằng-khuya, khóc-mà-không-ra-nước-mắt. Đó-gọi-là-những-giọt-nước-mắt-khô.

 

– Trần Yên Hòa

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
Ở xứ ấy, người ta ngủ đến trưa mới dậy. Chàng nhớ thế khi nghĩ về mùa xuân, mùa hạ, mùa thu khi còn bé, mỗi lần nghĩ thế, đều lấy làm ngạc nhiên, và lấy làm ngạc nhiên về sự ngạc nhiên ấy. Thế mà giữa một thành phố châu Âu, chàng lại gặp chúng. Trên nền tường trắng và mặt biển xanh, giữa những màu xanh và trắng, chỉ hai màu ấy, đôi khi xanh và đỏ, chàng gặp lại chúng, hồ hởi, tưng bừng, nó và chàng như hai thằng bạn thời mặc quần xà lỏn nay gặp nhau
Lơ đảng nhìn mây trời và đèn đường, tôi từ tốn chuyển xe sang tuyến trái để cua. Cha tôi thường nói, “Con phải tập bỏ tính lơ đểnh, nếu không, sẽ có ngày gặp phiền phức.” Nhưng lơ đểnh là nơi nghệ sĩ lang thang, ngẫu hứng tìm thấy những sáng tạo không ngờ. Chợt thoáng trong hộp kính nhìn lui, thấy chiếc xe đen nhỏ bắn lên với tốc độ nguy hiểm, tôi chuyển xe về lại bên phải, sau gáy dựng lên theo tiếng rít bánh xe thắng gấp chà xát mặt đường, trong kính chiếu hậu, một chiếc xe hạng trung màu xám đang chao đảo, trơn trợt, trờ tới, chết rồi, một áp lực kinh khiếp đập vào tâm trí trống rỗng, chỉ còn phản xạ tự động hiện diện. Chợt tiếng cha tôi vang lên: “đạp ga đi luôn.” Chân nhấn xuống, chiếc xe lồng lên, chồm tới như con cọp phóng chụp mồi. Giữa mơ hồ mất kiểm soát, tử sinh tích tắc, tôi thoáng nhận ra trước mặt là thành cây cầu bắt qua sông.
Danh đi làm lúc 5 giờ sáng, ra về lúc 2 giờ trưa, từ sở làm đến đây khoảng 10 phút đường phi thuyền bay. Giờ này vắng khách. Những lúc khác, buôn bán khá bận rộn. Áo quần lót ở đây khắn khít thời trang, từ đồ ngủ may bằng vải lụa trong suốt, nhìn xuyên qua, cho đến hàng bằng kim loại nhẹ, mặc lên giống chiến sĩ thời xưa mang áo giáp nhưng chỉ lên giường. Hầu hết khách hàng đến đây vì Emily và Christopher. Người bàn hàng độc đáo. Họ đẹp, lịch sự, làm việc nhanh nhẹn, không lầm lỗi. Cả hai có trí nhớ phi thường. Không bao giờ quên tên khách. Nhớ tất cả món hàng của mỗi người đã mua. Nhớ luôn ngày sinh nhật và sở thích riêng. Ngoài ra, họ có thể trò chuyện với khách về mọi lãnh vực từ triết lý đến khoa học, từ chính trị đến luật pháp, từ du lịch đến nấu ăn… Khách hàng vô cùng hài lòng
Sau hơn ba mươi năm gắn bó với cuộc sống ở Mỹ, ông Hải và bà Lan quyết định về hưu và bắt đầu một chương mới của cuộc đời. Quyết định này, mặc dù bất ngờ với những người xung quanh, lại xuất phát từ một ước mơ giản dị-sống những ngày cuối đời an nhàn tại quê hương. Hai ông bà đã dành dụm được một khoản lương hưu kha khá, cộng thêm số tiền đầu tư từ kế hoạch lương hưu 401k, đủ để họ cảm thấy có thể an tâm sống thoải mái ở Việt Nam.
Mẹ chị vừa bước qua tuổi 90, cụ đã bắt đầu lẫn, không tự săn sóc mình và không dùng máy móc được nữa. Bố chị mới mất cách đây hai năm và Mẹ chị xuống tinh thần rất nhanh sau khi Bố mất. Bắt đầu là buồn bã, bỏ ăn, thiếu ngủ, sau đi tới trầm cảm. Chị đi làm bán thời gian, giờ còn lại cả ngày chạy xe ngoài đường đưa đón mấy đứa nhỏ, hết trường lớp thì sinh hoạt sau giờ học. Chị không thể luôn ở bên Mẹ. Chị tìm được nhà già cho Mẹ rất gần trường học của con, lại gần nhà nữa, nên ngày nào cũng ghé Mẹ được, Mẹ chị chỉ cần trông thấy chị là cụ yên lòng.
Má ơi! Thế giới vô thường, thay đổi và biến hoại trong từng phút giây nhưng lòng con thương má thì không biến hoại, không thay đổi, không suy hao. Nguyện cầu ngày đêm cho má, hướng phước lành đến cho má. Cầu chư Phật, chư Bồ Tát, chư hiền thánh tăng ba đời mười phương gia hộ má vượt qua đau bệnh để sống an lạc trong những ngày tháng tuổi già bóng xế.
Truyện đầu tiên kể nơi đây là kể về một tiền kiếp của Đức Phật Thích Ca. Khi đó, ngài được gọi là một vị Bồ Tát. Ngày xưa rất là xưa, có hai người thợ săn, là hai vị thủ lĩnh của hai ngôi làng gần nhau. Hai vị trưởng làng đã lập một giao ước rằng nếu con của họ tình cờ khác giới tính, họ sẽ sắp xếp cho hai đứa con này kết hôn với nhau. Đó là một thời phần lớn hôn nhân là do sắp xếp của ba mẹ. Một vị trưởng làng có một cậu con trai được đặt tên là Dukūlakumāra, vì cậu bé được sinh ra trong một tấm vải bọc đẹp; vị trưởng làng kia có một cô con gái tên là Pārikā, vì cô bé được sinh ra ở bên kia con sông. Khi chàng trai và cô gái lớn lên, cha mẹ hai bên đã kết hôn cho hai người con này. Tuy nhiên, chàng trai Dukūlakumāra và cô gái Pārikā đã có nhiều kiếp tu, cùng giữ hạnh trong sạch, cho nên cô dâu và chú rể cùng cam kết bí mật với nhau rằng hai người sẽ ở chung nhà như vợ chồng, sẽ yêu thương nhau như vợ chồng nhưng sẽ không làm mất hạnh trong sạch của nhau.
Rõ ràng thằng bé đã thức. Nhưng khi An bước đến bên giường, mắt cu cậu nhắm tịt lại vờ như đang ngủ. An cù vào nách con : — Giả bộ này. Giả bộ này… / Bin uốn éo người, cười khanh khách. An xốc con dậy, hôn vào đôi má phúng phính: / — Con đánh răng rồi ti sữa cho ngoan nhé. Mẹ đi làm đây. / Bin choàng vòng tay nhỏ xíu quanh cổ mẹ, giọng ngọng nghịu: / — Mẹ ứ đii… / Bà đưa tay đỡ lấy cu Bin: / — Sang đây bà bế. Chiều mẹ lại về với Bin nào. / Chỉ nũng nịu với mẹ chút thôi, chứ Bin rất ngoan. Chưa bao giờ em khóc nhè, vòi vĩnh như những đứa trẻ khác. Sự hiểu chuyện của con, nhiều khi làm An nghe buốt lòng.
Chiếc ghế đá hầu như rất quen thuộc, dù nó cũng như mọi chiếc ghế khác trong công viên. Tháng Sáu. Bầy ve kêu inh ỏi. Chúng vô tư thật! Đoan ngồi xuống. Mấy buổi chiều nay, tan học, Đoan ghé khu vườn rộng lớn này, như một người trở về, cảm giác thật khó tả. Chợt nghe trong đầu vẳng lại lời của một bài thơ:
Cuộc đời trung úy Đỗ Lệnh Dũng, một sĩ quan VNCH, là biểu tượng bi tráng của lòng trung thành, khí phách giữa chiến tranh tàn khốc, và là minh chứng cho nỗi đau kéo dài của những người lính và thương phế binh miền Nam sau cuộc chiến.
Lớn hơn anh Hợp một tuổi, tháng 4 năm 1975, anh Đăng chưa xong năm thứ nhất về Cơ khí ở Phú Thọ, vận nước xoay chiều, ba anh cũng phải đi "học tập cải tạo" như hơn ba trăm ngàn Sĩ quan QLVNCH. Là con trai đầu lòng, anh Đăng bỏ cả ước mơ, bỏ trường về quê, điền vào chỗ trống của người chủ gia đình mà ba anh bỏ lại. Anh sinh viên kính trắng của Phú Thọ bỗng chốc trở thành phụ xe, lơ xe, cũng đổi đời như gần hai chục triệu người dân miền Nam.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.