Hôm nay,  

Nước tràn ly

16/11/202309:53:00(Xem: 2854)
Truyện

minh hoa truyen Nuoc Tran Ly

Tạ Đình Tới kết hôn với chị Nghiêm Thị Bình đã được hơn mười năm. Anh là một công chức. Chị làm nhân viên bưu điện thành phố. Anh chị có với nhau bốn đứa con ba gái, một trai, đủ nếp đủ tẻ. Anh chị đều hưởng lương nhà nước. Như vậy xem ra cũng là một gia đình căn bản, tài chính ổn định, học thức tương đương. Hai gia đình nội ngoại cân xứng. Chị phúc hậu, vẻ đẹp đầy đặn, mặn mà của phụ nữ đã chín chắn. Hằng ngày chị đi làm chăm chỉ. Về nhà lo chợ đò cơm nước, chăm sóc con cái. Các cháu xinh xắn, ngoan, chăm học. Anh chị có căn nhà rộng rãi xây kiểu ba gian trong khu vườn nhỏ đầy hoa trái. Giờ rảnh, chị trồng trọt, khu vườn lúc nào cũng xanh mướt với nhiều cây ăn quả và rau trái. Chị còn nuôi thêm đàn gà vịt để lấy trứng góp phần bổ sung vào nguồn thực phẩm cho gia đình.
    Anh là một người đàn ông (điều đó hẳn rồi) nhưng cái tính của anh giống đàn bà hơn! Mặc dù người anh không nữ tính mà đầy xương xẩu với khuôn mặt góc cạnh, má hóp. Do đã rụng bớt vài cái răng mà anh tiếc tiền không chịu trồng. Anh bảo: "Anh là người ít khi cười, chẳng ai thấy “hàng tiền đạo”. Có lỡ cười khi ai nói gì hay thì bụm miệng lại là được, cần gì trồng cho tụi nha nó có cơ hội chặt chém!" Thân hình anh cao ráo nhưng ốm và khô nên trông anh lúc nào cũng lọt thỏm trong bộ áo quần công chức. Anh năm nay đã bước vào độ tuổi ngũ tuần.
    Chị thì kém anh 5 tuổi. Chị được phân công phụ trách một quầy bưu điện ngay khu chợ của xóm tôi, cạnh con lộ xe cộ đi lại tấp nập. Mỗi lần anh đi đâu đó ngang qua trước văn phòng làm việc của chị, tối về nhà thể nào anh cũng cật vấn: “Hôm nay, tôi thấy bà mời một ông khách ăn hạt dưa, ra vẻ thân mật lắm nhỉ!” Khi thì anh bảo: “Sáng nay lại còn nhăn răng ra cười với khách nữa! Cười gì vậy? Vui lắm à! Hay là cười tình, ve vãn đàn ông!”
    Chị bảo:
    “Anh buồn cười thật! Khách đến bưu điện giao dịch thì mình phải niềm nở. Hồi em vào ngành người ta dạy: “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” mà! Khách tới làm việc mà cái mặt bí xị thì chẳng khác nào đuổi khách. Còn tết, cơ quan có sẵn hạt dưa, mứt, khách hàng tới, mình vui vẻ mời người ta ăn chút có sao đâu! Mà anh cũng nên cười lên cho vui vẻ. Ai cấm anh cười đâu nào!”
    Thế nhưng anh vẫn vẻ mặt hầm hầm. Đi ra đá cái cái ghế, đi vô chằn cái ly nước trên bàn thật mạnh, “quăng thúng đụng nia” chị giật hết cả mình.
    Vẫn thái độ “mặt nặng mày nhẹ” anh nói: “Có chồng rồi là ra đường phải nghiêm túc, không được cười cợt với thằng nào nha! Tôi không thích vậy!”
    Chị không nói gì nữa lẳng lặng làm việc mà nghe lòng mình cay đắng dâng lên khóe mắt rưng rức. Trong nhà, mỗi lần mua sắm gì anh cũng bảo chia hai mỗi người chịu một nửa. Tiền lương anh cất riêng. Ví như mua cái nồi cơm điện giá 400.000 đồng thì chia người 200.000 đồng. Có lần sắm một cái giường gỗ giá 5 triệu. Anh nói: “Cái này bà phải chịu 3 triệu, tui 2 triệu vì bà hay ở nhà, nằm nhiều hơn tôi!” Đó, lý lẽ của anh là vậy và luôn vậy. Tất cả chị đều nín nhịn mặc dù cũng có khuyên nhủ ít nhiều nhưng xem ra không thấm vào đâu. Chị cay đắng, nuốt buồn vào trong, chịu đựng ngày này qua tháng khác để lo cho các con. Một hôm anh về nhà tuyên bố một câu xanh rờn:
    “Giờ tôi muốn ly thân! Vì tôi đã tìm được tình yêu đích thực của đời mình. Cô ấy trẻ hơn bà, hấp dẫn hơn, cuồng nhiệt hơn bà!”
    Chị nghẹn lời để mặc nước mắt lả chả rơi! Tình mới của anh là một cô bé trẻ bằng tuổi con bé đầu của anh chị! Chị nhắm mắt đưa chân mặc anh muốn làm gì thì làm. Không còn lựa chọn nào hơn! Vì chị có đồng ý hay không thì anh cũng đã quyết rồi! Anh thỏa thuận chia chác tài sản với chị rồi khăn gói ra đi xây tổ uyên ương mới. Cũng là lúc cơ quan đuổi việc anh vì lý do vi phạm luật hôn nhân gia đình. Anh sống với cô vợ trẻ ở một căn phòng trọ ngoại ô thuộc huyện Cần Giờ. Cô vợ trẻ hơi bị tật ở chân, dáng đi chấm phẩy. Cô lớn lên từ trại tình thương. Không có gia đình bên ngoại nên anh mới dễ dàng tán tỉnh cô bé. Họ có với nhau một đứa con nhỏ đã hơn một tuổi. Từ đó ngày ngày anh lăn lộn kiếm sống để nuôi con.
    Bẵng đi mấy năm tôi không thấy chị ở quầy bưu điện nữa. Tình cờ gặp chị ở chợ hoa ngày tết. Chị kể là anh chị đã li dị. Anh có mái ấm riêng. Các con lớn nay đã lập gia đình. Chị giờ cũng thảnh thơi, có hội hưu trí hay đi cà phê với nhau. May mắn gặp được tri kỷ của đời mình. Anh Nguyễn Đình Yên sống độc thân. Vợ anh mất đã lâu, các con trưởng thành ra riêng. Nay anh chị sống vui vẻ bên nhau, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó.
    Vậy là sau những va đập nhỏ to của cuộc sống hôn nhân chênh lệch cá tính. Và sau cùng là anh phụ rẫy chị như “giọt nước tràn ly”. À không! Chậu nước hắt lên đổ tràn ly. Ly nước vốn đã chất chứa nhiều chịu đựng cũng đến lúc phải tràn dù không mong muốn đổ vỡ.
    Thôi vậy cũng mừng cho chị được giải thoát. Chị cũng đã làm tròn vai trò làm mẹ, các con trưởng thành, có gia đình riêng. Chị cũng đã tìm được niềm vui chặng cuối đường, tuổi xế chiều mong chị có cuộc sống yên bình, thoải mái, dễ chịu hơn!
 

– Hoàng Thị Bích Hà

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.