Hôm nay,  

Nước tràn ly

16/11/202309:53:00(Xem: 2857)
Truyện

minh hoa truyen Nuoc Tran Ly

Tạ Đình Tới kết hôn với chị Nghiêm Thị Bình đã được hơn mười năm. Anh là một công chức. Chị làm nhân viên bưu điện thành phố. Anh chị có với nhau bốn đứa con ba gái, một trai, đủ nếp đủ tẻ. Anh chị đều hưởng lương nhà nước. Như vậy xem ra cũng là một gia đình căn bản, tài chính ổn định, học thức tương đương. Hai gia đình nội ngoại cân xứng. Chị phúc hậu, vẻ đẹp đầy đặn, mặn mà của phụ nữ đã chín chắn. Hằng ngày chị đi làm chăm chỉ. Về nhà lo chợ đò cơm nước, chăm sóc con cái. Các cháu xinh xắn, ngoan, chăm học. Anh chị có căn nhà rộng rãi xây kiểu ba gian trong khu vườn nhỏ đầy hoa trái. Giờ rảnh, chị trồng trọt, khu vườn lúc nào cũng xanh mướt với nhiều cây ăn quả và rau trái. Chị còn nuôi thêm đàn gà vịt để lấy trứng góp phần bổ sung vào nguồn thực phẩm cho gia đình.
    Anh là một người đàn ông (điều đó hẳn rồi) nhưng cái tính của anh giống đàn bà hơn! Mặc dù người anh không nữ tính mà đầy xương xẩu với khuôn mặt góc cạnh, má hóp. Do đã rụng bớt vài cái răng mà anh tiếc tiền không chịu trồng. Anh bảo: "Anh là người ít khi cười, chẳng ai thấy “hàng tiền đạo”. Có lỡ cười khi ai nói gì hay thì bụm miệng lại là được, cần gì trồng cho tụi nha nó có cơ hội chặt chém!" Thân hình anh cao ráo nhưng ốm và khô nên trông anh lúc nào cũng lọt thỏm trong bộ áo quần công chức. Anh năm nay đã bước vào độ tuổi ngũ tuần.
    Chị thì kém anh 5 tuổi. Chị được phân công phụ trách một quầy bưu điện ngay khu chợ của xóm tôi, cạnh con lộ xe cộ đi lại tấp nập. Mỗi lần anh đi đâu đó ngang qua trước văn phòng làm việc của chị, tối về nhà thể nào anh cũng cật vấn: “Hôm nay, tôi thấy bà mời một ông khách ăn hạt dưa, ra vẻ thân mật lắm nhỉ!” Khi thì anh bảo: “Sáng nay lại còn nhăn răng ra cười với khách nữa! Cười gì vậy? Vui lắm à! Hay là cười tình, ve vãn đàn ông!”
    Chị bảo:
    “Anh buồn cười thật! Khách đến bưu điện giao dịch thì mình phải niềm nở. Hồi em vào ngành người ta dạy: “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi” mà! Khách tới làm việc mà cái mặt bí xị thì chẳng khác nào đuổi khách. Còn tết, cơ quan có sẵn hạt dưa, mứt, khách hàng tới, mình vui vẻ mời người ta ăn chút có sao đâu! Mà anh cũng nên cười lên cho vui vẻ. Ai cấm anh cười đâu nào!”
    Thế nhưng anh vẫn vẻ mặt hầm hầm. Đi ra đá cái cái ghế, đi vô chằn cái ly nước trên bàn thật mạnh, “quăng thúng đụng nia” chị giật hết cả mình.
    Vẫn thái độ “mặt nặng mày nhẹ” anh nói: “Có chồng rồi là ra đường phải nghiêm túc, không được cười cợt với thằng nào nha! Tôi không thích vậy!”
    Chị không nói gì nữa lẳng lặng làm việc mà nghe lòng mình cay đắng dâng lên khóe mắt rưng rức. Trong nhà, mỗi lần mua sắm gì anh cũng bảo chia hai mỗi người chịu một nửa. Tiền lương anh cất riêng. Ví như mua cái nồi cơm điện giá 400.000 đồng thì chia người 200.000 đồng. Có lần sắm một cái giường gỗ giá 5 triệu. Anh nói: “Cái này bà phải chịu 3 triệu, tui 2 triệu vì bà hay ở nhà, nằm nhiều hơn tôi!” Đó, lý lẽ của anh là vậy và luôn vậy. Tất cả chị đều nín nhịn mặc dù cũng có khuyên nhủ ít nhiều nhưng xem ra không thấm vào đâu. Chị cay đắng, nuốt buồn vào trong, chịu đựng ngày này qua tháng khác để lo cho các con. Một hôm anh về nhà tuyên bố một câu xanh rờn:
    “Giờ tôi muốn ly thân! Vì tôi đã tìm được tình yêu đích thực của đời mình. Cô ấy trẻ hơn bà, hấp dẫn hơn, cuồng nhiệt hơn bà!”
    Chị nghẹn lời để mặc nước mắt lả chả rơi! Tình mới của anh là một cô bé trẻ bằng tuổi con bé đầu của anh chị! Chị nhắm mắt đưa chân mặc anh muốn làm gì thì làm. Không còn lựa chọn nào hơn! Vì chị có đồng ý hay không thì anh cũng đã quyết rồi! Anh thỏa thuận chia chác tài sản với chị rồi khăn gói ra đi xây tổ uyên ương mới. Cũng là lúc cơ quan đuổi việc anh vì lý do vi phạm luật hôn nhân gia đình. Anh sống với cô vợ trẻ ở một căn phòng trọ ngoại ô thuộc huyện Cần Giờ. Cô vợ trẻ hơi bị tật ở chân, dáng đi chấm phẩy. Cô lớn lên từ trại tình thương. Không có gia đình bên ngoại nên anh mới dễ dàng tán tỉnh cô bé. Họ có với nhau một đứa con nhỏ đã hơn một tuổi. Từ đó ngày ngày anh lăn lộn kiếm sống để nuôi con.
    Bẵng đi mấy năm tôi không thấy chị ở quầy bưu điện nữa. Tình cờ gặp chị ở chợ hoa ngày tết. Chị kể là anh chị đã li dị. Anh có mái ấm riêng. Các con lớn nay đã lập gia đình. Chị giờ cũng thảnh thơi, có hội hưu trí hay đi cà phê với nhau. May mắn gặp được tri kỷ của đời mình. Anh Nguyễn Đình Yên sống độc thân. Vợ anh mất đã lâu, các con trưởng thành ra riêng. Nay anh chị sống vui vẻ bên nhau, thỉnh thoảng đi du lịch đây đó.
    Vậy là sau những va đập nhỏ to của cuộc sống hôn nhân chênh lệch cá tính. Và sau cùng là anh phụ rẫy chị như “giọt nước tràn ly”. À không! Chậu nước hắt lên đổ tràn ly. Ly nước vốn đã chất chứa nhiều chịu đựng cũng đến lúc phải tràn dù không mong muốn đổ vỡ.
    Thôi vậy cũng mừng cho chị được giải thoát. Chị cũng đã làm tròn vai trò làm mẹ, các con trưởng thành, có gia đình riêng. Chị cũng đã tìm được niềm vui chặng cuối đường, tuổi xế chiều mong chị có cuộc sống yên bình, thoải mái, dễ chịu hơn!
 

– Hoàng Thị Bích Hà

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.