Hôm nay,  

Con Đường

03/12/202309:29:00(Xem: 2785)
Tưởng niệm Nguyễn Đình Toàn

photo by Nguyễn Bá Khanh
Nhà văn Nguyễn Đình Toàn (Ảnh Nguyễn Bá Khanh).

(Gửi Nguyễn Bá Khanh, một ngày không thể quên.)

 

Cho đến lúc này, tôi tự hỏi có bao nhiêu con đường mình đã đi qua suốt những năm tháng có mặt trên đời? Nhiều lắm, những con đường quên lãng mất hút với thời gian. Và cũng có những con đường đã vạn lý xa, nhưng trăm năm đằm đắm nhớ nhung nếu như được sống trọn hết một kiếp người.
    Tôi đã bước trên con đường đó vào một buổi sáng giữa tháng 10.
Baylor Drive, những tàn cây palmier jupon cao ngất, ngẩng mặt với trời xanh. Những cành cọ rũ xuống buồn bã vì trời không một gợn gió, nhưng lòng tôi như Tết, háo hức xuân tươi.
Như, " khi em về trời xanh và gió mát / con đường mòn thơm lá mục quê hương" (1)
    Nắng ấm loang trên những bờ tường của từng ngôi nhà nhìn từa tựa như nhau. Có thể đây là nơi cư ngụ của những cư dân lớn tuổi nên tất cả chìm trong êm ả, tĩnh lặng, không một bóng người qua lại. Trong thứ không gian trong vắt này, tôi nghĩ, nếu như có một chiếc lá lìa cành, tôi cũng có thể nghe rõ được âm thanh rơi rụng của nó. Thực ra, thứ âm thanh này tôi đã nghe, nhưng từ một giọng nói. Tôi đang nhớ lại và mường tượng ra nó, dù bây giờ, đất trời chưa hẳn vào thu, hoặc không có mùa thu nơi đây. Cỏ vẫn xanh ngát nằm khép nép bên vệ đường, cây lá vươn mình trên những vuông sân.
    Đường dẫn vào ngõ. Ngõ hẹp, nhưng bên mỗi hiên nhà vẫn có những khoảng đất trồng đầy chuối, dù chỉ là những loại chuối kiểng. Những thân xanh bóng mượt và những tàu lá khiến tôi nghĩ đến một "quê hương thu nhỏ" (2)
    Không phải là những con đường ngập đầy lá rụng của một Đà Lạt quá khứ mù sương, hay một lối đi quanh co, hai bên bờ đất viền quanh những bụi dã quỳ rực nắng. Cũng chẳng là con đường tỉnh lỵ vắng vẻ sớm khuya có những bến phà đưa người từ xã này này sang huyện nọ. Những vùng đất tôi đã đi qua, nhìn thấy… theo một cách nào đó.
    Tất cả đều xa lạ. Nhưng tôi biết, tôi sẽ gặp lại một nơi thân thiết của một thời. Nơi chốn đã cất giữ dùm tôi những tháng ngày tươi đẹp nhất đời mình.
    Qua những bức tường màu của một thứ nâu-cam dang dở, tôi bước lên những nấc thang.
Tôi đã tìm thấy sau cánh cửa ấy, một quê hương thu nhỏ. Quê hương của những người Việt ly hương có di ảnh, bàn thờ người quá cố. Có nồi cơm điện, ấm trà, phích nước… Nhưng quê hương này còn có áo mơ phai bên những đám cháy cùng với tro than.
    Và tôi thấy nó rõ ràng hơn, nó ở đấy. Đường cũ kia rồi, nơi của những sáng Sài Gòn, sân trường, lớp học. Đường xưa của những đêm xao xuyến từng giấc ngủ ngoan của bao thiếu nữ. Đường đêm chiến tranh mà dường như người ta không còn quan tâm đến ánh hỏa châu ngoài trời, hay tiếng súng đì đùng từ xa vọng lại. Nhìn nó, như một phế tích buồn hiu. Có gặp lại người yêu dấu cũ, cảm xúc của tôi cũng chỉ như thế. Bởi chính nó, con đường ấy là tình yêu, là tình đầu. Một mối tình không có người yêu.
    Chỉ là một cuốn sách được viết ra từ hơn nửa thế kỷ. Là một trong những tác phẩm lấp lánh như sao giữa một bầu trời văn nghệ sáng rực thời vàng son của đất nước, với những văn nghệ sĩ uyên bác, tài hoa. Những ngôi sao tưởng đã lịm tắt, chìm chết cùng với bầu trời đã vẫn đục u ám, nhưng tất cả còn sống mãi trong lòng hàng hàng, triệu triệu người yêu nghệ thuật mà không gì có thể làm lu mờ.
    Tôi ôm lấy nó, tôi sờ chạm mân mê từng vết màu đã ố với thời gian. Tôi hít thở, tìm lại thứ không khí của một khung trời cũ. Tôi tìm thấy tôi.
    Người dẫn tôi đến "con đường" ngày xưa ấy đang ngồi trước mặt tôi. Lẽ ra tôi đã gặp ông từ năm trước. Nhưng một người thân quen của ông nói với tôi rằng, có thể ông sẽ không còn nhớ ai là ai nữa. Tôi đâu phải là một trong những "ai" này, để buồn khi ông không còn nhớ đến mình. Tôi muốn có một tập thơ ông vừa mới phát hành mà tôi không còn tìm thấy ở tiệm sách. Tôi muốn gặp một người, một giọng nói, những đoạn văn, lời thơ, tiếng nhạc.
    Lần đó, tôi đã không gặp ông.
    May mà còn có lần này.
    Người bạn trẻ đi cùng với tôi đã rất vui khi ông hỏi đến những người thân trong gia đình anh, mà anh nghĩ có lẽ ông đã quên. Tôi vui vì ánh mắt thân thiện của ông. Ánh mắt khiến tôi bớt e dè ngần ngại.
    Lúc ấy, tôi không nhìn rõ ông như thế nào. Ông đau ốm, bệnh hoạn ra sao? Tôi chỉ nghĩ đến những cuốn sách. Tiểu thyết của ông như lụa là kỳ ảo phủ kín người tôi, tôi không thể thoát ra được. Tôi hỏi đến người con gái có vết nám trên mặt, Lãm và Thục, những nhân vật của ông. Tôi hỏi đến Phụng và Sơn trong Đồng Cỏ. Hai người ấy xem chừng họ đã như thế với nhau. Nhưng đọc đi đọc lại tôi vẫn chưa tìm thấy những con chữ nào nói rõ ra điều ấy…Tôi nhớ nụ cười rất trẻ của ông, ông nói: đôi khi chỉ cần hai chữ thôi, đủ để nói lên "điều ấy".
    Khi tôi về, nhìn lại những bức hình mà người bạn Nhiếp Ảnh đã chụp kỷ niệm cuộc gặp gỡ này. Những bức ảnh với thứ ánh sáng, bối cảnh đầy nghệ thuật giữa cái ngẩng lên, nhìn xuống của chúng tôi. Dĩ nhiên là tôi đã sung sướng, rung động, không cách gì tả được. Cho đến khi, người thân của ông nhắc nhở, khuyên tôi hãy cất cho riêng tôi những tấm hình vì nhìn ông tiều tụy quá! Tôi mới nhận ra, Nguyễn Đình Toàn cúi xuống với ống pipe trong tay, rạng rỡ những trầm tư trong vũng tối vây quanh, Nguyễn Đình Toàn ngẩng mặt nhìn bầu trời mây xám, có những rặng cây gầy guộc khẳng khiu. Thứ chân dung đậm nét ca từ "lá thốt lên lời cây, gió lú đưa đường mây" 3. . Đó là cả một tận tụy, tìm tòi của Nguyễn Bá Khanh, người đã chụp bắt được hình ảnh của một tình nhân đứng giữa trời không, khóc mộng thiên đường… Nguyễn Đình Toàn ngày ấy, và bây giờ đã không còn như thế nữa. Nhưng cách nào, với tôi, bất cứ hình ảnh nào của ông cũng đẹp. Cái đẹp thoát ra từ một tâm hồn, một văn nghệ sĩ tài hoa lẫy lừng, mà có lẽ chưa ai có thể thay thế.
    Trong tiểu thuyết của ông, dù nhân vật là nam hay nữ, thỉnh thoảng ta đọc được những câu của họ nói về quê hương, về những nơi chốn… và ông đã dùng hai chữ "tư hương" tuyệt đẹp khi diễn tả tình cảm này. Nhưng với tôi, tiếng kêu mộc mạc "tôi cố bám lấy đất nước tôi" qua những nốt nhạc là tiếng nói xé lòng, đau đớn nhất.
    Ông đã cố bám lấy đất nước của mình nhưng vô vọng. Ông đã lìa xa tổ quốc và nhìn đâu cũng thấy quê hương. Những quê hương được ông thu nhỏ lại, nhưng bây giờ ông cũng đành bỏ tất cả mà đi.
    Con đường ông dẫn tôi đi, đưa tôi vào những vùng hoa thơm, cỏ lạ của văn chương đầy mê hoặc. Tôi vẫn đi mãi cho đến bây giờ. Nhưng có một điều tôi chưa nói với ông, đọc những trang sách của ông rất nhiều lần, tôi nghĩ mình không nên viết nữa.
    Cố thi sĩ Du Tử Lê cho rằng Nguyễn Đình Toàn là "người tình không chân dung" của rất nhiều nữ thính giả. Điều này không sai. Bao nhiêu người nữ như tôi đã hạnh phúc với những đêm khuya, nghe tiếng nói ấm áp và thổn thức cùng ông…
    "Chim đau đã quên mùa, hoa sầu đã quên nở. Nhưng những ngày tháng êm đềm của chúng ta xưa vẫn không ngừng làm cho lòng anh thổn thức. Anh như đứa trẻ, ngắt bông hoa cầm trên tay và tưởng tượng đó là trái tim mình. Ôi những hồn hoa, nở bằng nước mắt đau thương, nhỏ trên hạnh phúc".
    Người tình không chân dung, tôi đã âm thầm tìm kiếm, theo dấu ông đằng đẵng hơn nửa thế kỷ dài. Bây giờ tôi đã gặp được dung nhan của tình yêu ấy. Nhưng gặp để chia lìa. 20/10/2023 và 28/11/2023. Chỉ được ba mươi tám ngày ngắn ngủi và mãi mãi, không còn một hạnh ngộ nào đến nữa.
    Tôi ôm hai tập tiểu thuyết và một tập thơ có chữ ký từ những ngón tay run.
     Nơi ngưỡng cửa, những ngón tay run rẩy nhưng ấm áp đã cầm lấy tay tôi phút chia tay và đôi mắt là cả một vùng cô đơn. Cái cô đơn ánh lên, vọng về những tiếng nói, âm thanh trên làn sóng điện của một Sài Gòn thương, tiếc.
    - Ráng thu xếp, đến chơi với tôi một hôm nữa nhé!
    Vậy mà tôi đã không đến được. Lòng tôi đầy những dày vò hối tiếc.
    Tôi đã phụ tình ông.
     Người tình, người yêu, nhà văn, nhà thơ, nhạc sĩ. Con người tài hoa tột đỉnh ấy đã bỏ đi. Tôi đứng lại, ngậm ngùi nhớ mãi một con đường như thuở đầu bước đến.
 

-- Đặng Mai Lan

(Paris 3/12/2023)

 

1- Khi em về (thơ)

2- Quê hương thu nhỏ (nhạc)

3- Tình khúc thứ nhất (Nguyễn Đình Toàn- Vũ Thành An)

* Những chữ in đậm là tựa những tác phẩm của NĐT.

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thế là một ngày đẹp trời y bỗng nảy ra ý nghĩ: "Sao mình không thử làm văn sĩ?”, nói là làm ngay. Y vội lấy giấy bút và ngồi vào bàn hẳn hoi. Y lại nghĩ: "Phàm làm việc gì cũng phải có lễ, khai trương bá cáo cho thiên hạ biết, huống chi đây là việc quan trọng của đời người và còn ảnh hưởng đến đời sau”, nghĩ thế bèn đứng lên chỉnh sửa y phục thẳng thớm trang nghiêm, chải tóc, rửa mặt cho trông dễ coi một tí,
Cái thằng trông như một xác chết. Hay nó chính là xác chết vừa đội mồ sống dậy. Nhìn nó không khác gì một con zombie thường thấy trên ti vi. Cái mặt đờ đẫn, chân tay lỏng khỏng, áo quần rộng thùng thình. Vậy mà nó lại quàng được vai một đứa con gái. Một đứa con gái thấp hơn nó một nửa cái đầu. Rõ ràng là một đứa con gái. Một đứa con gái Á Châu. Tóc ngắn tua tủa trộn ba màu đen, đỏ, vàng. Mắt to kẻ viền đen. Cặp vai trần trắng muốt, hai vòm ngực đội cao nếp áo thun đen. Hai đứa nhùng nhằng bước vào tiệm. Vào hẳn trong tiệm rồi, chẳng thèm chào hỏi ai, thằng thanh niên ôm con nhỏ, cúi xuống, dán môi nó lên môi con nhỏ, mút và kéo môi dưới đứa con gái dài ra, để tuột ra cái âm thanh chùn chụt.
Tôi được phái đi công tác trong chiến dịch OIR, Operation Inherent Resolve, ở Tây Bắc Iraq, đúng vào những tháng Hè nóng oi bức như đổ lửa. Những cơn mưa ở đây không bao giờ xảy ra vào mùa Hè, chỉ vài cơn mưa rào vào mùa Đông, nên không khí như đặc quánh lại, nóng nung người và bụi tung trời.
Trong khi Quỳnh thả hồn theo tình ca Bóng Chiều Xưa của Dương-Thiệu-Tước, Đằng tần ngần nhìn theo nàng. Khi chiếc SUV của Quỳnh lăn bánh, Đằng thở dài, chợt nhớ một câu rất ý nghĩa để tự xoa dịu tự ái của chàng: “If you love something, set it free. If it comes back, it is yours. If it doesn’t, it never was.”
Trằn trọc trở mình mãi mà không ngủ được, mắt nhắm nghiền, các bộ phận khác như tim. gan, phổi, dạ dày… đều lắng yên, duy chỉ có bộ óc thì không nghỉ, thậm chí nó còn tăng cường mạnh hơn. Bao nhiêu ý tưởng ùn ùn trồi lên như mối ùn ổ. Những cảnh tượng huyễn hoặc hay thực tế cứ loang loáng xuất hiện rồi tan biến tựa như hoạt cảnh trên màn ảnh truyền hình. Y cố định tâm như cách các tu sĩ, nào là niệm Phật, trì chú, quán hơi thở… nhưng chẳng ăn thua gì.
“Hình con gái ông phải không?” Bà cụ người da trắng ngồi bên cạnh hắn lên tiếng hỏi. Hắn giật mình, sửa vội lại thế ngồi cho ngay ngắn, bàn tay phản ứng bằng cách gấp vội cuốn sách lại như lúc bị bắt gặp nhìn trộm một tấm hình khiêu dâm, rồi bối rối mở rộng trang sách, cho tấm hình trải rộng ra trước mặt hai người. Hắn bẽn lẽn quay qua nhìn bà cụ. “Sao bà lại nghĩ đó là hình con gái tôi?”
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà lại không bình thường nếu người trong cuộc không có tên là Thomas Jefferson. Đó là một buổi chiều mùa đông lạnh giá tại miền Bắc Virginia. Con đường hun hút không một bóng người, dẫn tới bờ sông dòng nước hung hãn chảy xiết là nỗi tuyệt vọng của một lão ông đơn độc, đang nhìn thấy thần chết mỗi lúc mỗi đến gần.
Tôi là một nhân viên dân sự hay đi công tác xa nhà để hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị lính chiến Mỹ đóng đồn ở các nơi tiền tuyến xa xôi, nguy hiểm, và gian khổ như Iraq, Afghanistan, Châu Phi. Dĩ nhiên khi sống trong các trại lính, tôi cũng phải sống kỷ luật như lính và đương nhiên ăn, ngủ trong lều bạt cũng như lính. Không có một sự ưu đãi nào hơn lính. Hôm nay tôi kể bạn nghe về việc ăn và uống của họ khi được ăn những bữa ăn nóng hổi hoặc khi phải nhai lương khô, để bạn thấy được khi xa nhà, họ nhớ và thèm đến thế nào những bữa ăn bốc khói ngon lành của mẹ, của vợ nấu khi ngồi quây quần chung quanh bàn ăn gia đình dưới ánh đèn ấm áp tràn đầy tiếng cười vui. Thuở xa xưa khi quân đội còn chiến đấu bằng vũ khí thô sơ như gươm giáo, cung nỏ, bất cứ đoàn quân nào, khi chinh chiến xa, chỉ có xe lừa, ngựa chuyên chở chậm chạp, người chỉ huy đều phải tính sao cho có đủ lương thực nuôi quân thì mới mong đánh thắng được kẻ thù. Mỗi người lính ngày xưa chỉ đem theo mình cao lắm là khoảng
New York City đang dần dần hồi sinh. Tháng Tám nầy sẽ có “home coming concert” ở Central Park để ăn mừng, nghe đâu có mời Simon và rất nhiều người tiếng tăm khác.
Châu Về Hợp Phổ - đó là câu nói của Bs Nguyễn Đức Tùng, khi ông có nhã ý trao tặng bức tranh khảm xà cừ để chúng tôi đưa về Mẹ tôi. Chúng tôi thoạt đầu rất áy náy nhưng khi hiểu rõ câu nói và tấm chân tình của ông thì hân hạnh và cảm động được làm người nối tiếp cuộc hành trình 50 năm của bức tranh hy hữu. Bên dưới góc phải của bức tranh là tấm bảng nhỏ ghi tên người tặng là Ba tôi, đại tá Nguyễn Ngọc Khôi đang trong chức vụ thị trưởng Đà Nẵng và người nhận là trung tướng Donn J. Robertson, thuộc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Người đáng sợ hơn ma, chỉ có người mới sân hận thù ghét, chỉ có người mới đâm bị thóc thọc bị gạo, dèm pha phỉ báng; cũng chỉ có người mới tham lam tranh đoạt bằng mọi giá và cũng chỉ có người mới chơi đểu, chơi dơ, chơi xấu... Người hại người mới ghê gớm và tàn bạo.
Anh đậu xe trước chung cư, đèn khẩn cấp nhấp nháy đều đặn. Năm phút rưỡi chờ đợi. Những người qua lại nhìn anh. Những cái nhìn tọc mạch, xét nét. Bốn giờ ba mươi sáu phút, bóng em lấp ló ngoài khung cửa. Mắt em dừng lại ở xe anh. Trời lạnh. Em mặc áo da trông ấm cúng lạ thường. Nhưng anh không cảm thấy thèm được ôm chầm lấy em để hơi ấm hai thân thể hòa lẫn trong nhau như thuở trước. Em thong thả bước xuống những bậc thang xi măng ẩm ướt. Một chiếc xe van dừng lại phía sau anh. Những đầu tóc mầu đen rối bù ló ra khung cửa. Rồi những bàn chân da vàng khẳng khiu bước xuống xe, tất tả. Tiếng cười đùa, gọi nhau ơi ới vang cả một góc đường. Em luống cuống mở cửa xe. Em chào anh. Vẫn giọng nói thì thầm như hơi thở độ nào. Anh cố cười thật tươi đáp lại.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.