Hôm nay,  

Tưởng nhớ

12/6/202308:05:00(View: 2452)
Truyện

altar

Hôm ấy là ngày mùng một Tết, không khí trang trọng và linh thiêng của ngày đầu năm như rạng rỡ và đầm ấm bao quanh Quảng Hương Già Lam, chùa mang tên Quảng Hương, là tên của một vị tăng đã hy sinh vì đạo pháp năm 1963. Thầy về trùng tu chùa từ đó và chùa mang tên Quảng Hương từ đó, chùa tọa lạc trong hẻm Phật, hẻm số 498 đường Lê Quang Định, quận Gò Vấp.
    Nắng chiều có hơi ngả màu, nhưng cây cảnh xung quanh Già Lam tự vẫn lung linh xuân sắc, mấy gốc cây cổ thụ ngoài đường cái đã được quét vôi trắng như sáng lên trong nắng chiều. Mấy ngày giáp Tết, người dân địa phương, đa phần là Phật tử, đã thu vén cảnh quang quanh chùa, lối vô hẻm, đường đi, thiệt gọn gàng sạch sẽ, có một vài gốc cây, còn thấy chân nhang vài chén cháo cúng vong khô cạn nằm rải rác. Hoa lá vẫn tươi nở, dù là đất nước đã đổi chủ gần một năm.
    Nơi cổng chánh, sát tam quan là những chậu hoa đại đóa nở mãn khai màu vàng tươi, lấp lánh. Bao quanh bệ đá là một thảm hoa mười giờ đủ màu, chen nhau, chi chít mọc đầy nụ. Những ngày này, đúng ra chùa rất vui và rộn rịp khách thập phương và Phật tử quanh vùng đến lễ ríu rít đầu năm. Nhưng lúc này, họ cũng ngại đồn công an gần đó, nên từ 23 tháng chạp, ngày tiễn ông táo về trời, dân quanh vùng đã lai rai rải rác bắt đầu vào lễ Phật sớm. Họ như thay nhau đi từng nhóm lẻ tẻ, vì không còn được quần tụ đông vui trong chánh điện như năm trước.
    Cây lá bao quanh phường 1, vùng Lê Quang Định luôn luôn xanh tươi râm mát, mấy xe bán nước mía ngang đầu đường, không còn dùng, nhưng vẫn được xếp gọn gàng trong một góc phố. Đối diện trường mẫu giáo, là lối vào chùa, đi vào một khoảng lối 200 mét, thuộc khuôn viên tự viện có hai lối rẽ, lối bên trái đưa tới Pháp Quan Âm, lối bên phải có hồ cá, cá khá lớn, bơi chậm chạp như muốn nghe kinh. Bên cạnh hồ cá, còn có hồ cây cảnh, giữa hồ nước là nhiều chậu cây quý tọa lạc trên các bệ đá vuông vức, có nhiều chậu hoa mai tứ quý thấp và như có tự lâu đời.
           
Cây trong chiều cô tịch
Nghe chuông chùa chơi vơi
Mai nở bông nụ nhỏ
Ngủ giữa hồ mây trôi.
 
Phía đối diện, sau tháp Quan Âm, là một vườn cỏ xanh non, đi qua bãi cỏ là tháp Địa Tạng, trong tháp có nhiều tầng, theo thứ tự, ngăn nắp và chỉnh trang các hủ cốt của vô số thân nhân mãn phần của khách thập phương. Quả thế, thân nhân họ đã đưa họ vào đây, hy vọng họ nghe kinh kệ sớm chiều mà siêu thoát.
    Thầy Trí Thủ, ngoài việc trông nom Phật sự, ngài rất chăm lo việc thờ tự trong ngoài ngôi tháp Địa Tạng. Thầy đầy trách nhiệm với những thân nhân đã gởi gấm, hơn nữa, với từ tâm Bồ Đề, lúc nào ngài cũng lưu ý như an vị, và hơn nữa như an ủi những hương linh phảng phất đâu đó xung quanh thầy và xung quanh ngài Địa Tạng.
    Mỗi cuối ngày, sau buổi niệm Phật công phu chiều, ngài thường thong dong thả bộ đi từ chính điện hay từ hồ cá ra tháp thờ vong, vừa đi ngài vừa niệm chú vãng sanh, hình như ông không hề quên một lần nào:
 
Nhớ ai ai có nhớ không
Nhớ không, không nhớ, hoài công mong chờ
Không thơ thẩn, không thờ ơ
Thoát vòng đại mộng sang  bờ bến không
Đời là sắc sắc không không
Trăm năm vẫn một chữ không thường còn. 
 
Chiều mồng một Tết ấy, mới độ năm giờ chiều, nắng đã đổ nghiêng từ trên cao thưa thớt xuống lòng con phố Lê Quang Định, còn vài người khách đi lễ chùa ra về rải rác. Mùi hương vẫn phảng phất theo gió bay bay.
    Xịch tới cổng hểm 498 có một xe cyclo đậu lại, người đạp xe thắng nhẹ và quẹo vô lề đường, bên gốc một cây phượng già cỗi. Người ngồi trên xe là một người có thương tật, ông xuống xe với cây gậy chống trong tay, ông khá lớn tuổi, lối cũng gần 60 hay ngoài. Ông mặc quần đen vải dầy, cũ và một cái áo chemise màu xám. Ông bước xuống xe chậm rãi và đứng chờ. Thì ra ông chờ người chủ xe cyclo, người này trẻ hơn đang đẩy xe lên lề đường. Cố sức mãi cái xe cồng kềnh mới lên cao khỏi vỉa hè, người này trẻ hơn, anh ta đẩy sát xe vô bên cột đèn, rồi lom khom cúi xuống mở một giây xích ràng bánh xe vào trụ ciment.
    – Xong rồi chưa? Mình vô.
    Người lớn tuổi vừa quay nói rất nhẹ với người trẻ tuổi hơn đi cùng, đúng hơn là anh ta chở ông ta tới chùa bằng xe cyclo. Rồi người trẻ tuổi nói rất nhẹ, như không muốn cho ai nghe thấy:
    – Vô trước đi, cứ đi thẳng, em vô sau, nhè nhẹ thôi.
    Anh ta nói nhắc bạn đi nhè nhẹ thôi, nhưng mà, người lớn tuổi hơn, có cố gắng đến mấy cũng để lại âm thang khô cứng, lộc cộc do cái gậy gỗ chống xuống đất. Người tuổi trẻ hơn, chờ ông bạn đi tới một khoảng khá xa, anh mới lầm lũi bước theo sau.
    Cây lá trong sân chùa râm mát, gió đong đưa, mùi khói nhang ngạt ngào làm anh dễ chịu. Và anh luôn luôn dõi mắt về phía người bạn già đi khập khiễng đằng kia, đang tiến rất chậm chạp về chỗ để cốt nơi tháp ngài Địa Tạng. Anh đi và dừng lại, dừng lại một chốc lát rồi lại đi, rất từ từ, anh như muốn giữ khoảng cách với người bạn đằng trước:
    – A Di Đà Phật, đạo hữu tìm ai?
    – Dạ không, mô Phật, tôi không tìm ai cả, chúng tôi đi lễ đầu năm, lễ Phật, có bạn tôi đi trước, đằng kia, gần tới tháp để cốt đó.
    Anh vừa nói vừa chỉ tay.
    – Thưa, đạo hữu đi lễ chùa? Xin mời qua chánh điện lạy Phật, có thầy viện chủ trên đó.
    – Ơ, thưa là, ông bạn tôi đau chân, lên thang không nổi đâu, xin phép chú cho chúng tôi ở dưới này, ở trong vườn chùa, cũng được.
    – A Di Đà Phật, vậy mời hai đạo hữu ra sân trước, tôi sẽ đi thỉnh chuông.
    – Xin cám ơn chú, chú cho phép chúng tôi tự nhiên, chúng tôi đã lạy Phật, giờ xin vào chỗ để cốt… chúng tôi muốn thăm viếng vị chỉ huy cũ của chúng tôi!
    – Xin hai vị cảm phiền giây lát, tôi phải lên thưa với thầy trụ trì, phải thỉnh ý của thầy.
    – Thưa, vậy khoảng bao lâu thì chúng tôi, anh em tôi vô được trong ấy?
    – Xin đạo hữu chờ cho, tôi lên bạch thầy rồi xuống cho đạo hữu hay ngay. Dù gì, thì cũng phải chờ tôi xuống, tôi mở khóa cửa, quí vị mời vô trong tháp được mà.
    Nhưng rồi không thấy chú Quảng Định xuống. Mà thầy viện chủ đã đích thân, thầy nhẹ nhàng đi xuống vườn, vì thầy muốn gặp hai người từ xa đến. Thoạt nhìn họ từ đằng trước lối đi dài hun hút, thầy ngừng bước, thầy bấm tay, thầy đứng chờ. Họ đến trước mặt thầy, thầy nói gì đó, rất ôn tồn, hình như thầy xin phép xem qua giấy tờ tùy thân, họ lắc đầu, không có, sau cùng đưa trình thầy hai tấm thẻ bài lính, hai miếng sắt thiêng liêng mà họ để kín đáo trong áo lót đẫm mồ hôi.
    Thầy lặng lẽ nhìn họ, A Di Đà Phật, thầy gọi chú Quảng Định đi lấy chìa khóa và đưa họ vào bên trong tháp. Thưa, họ là hai người lính cũ, cuối năm, họ muốn được vào thăm cốt và bài vị của tướng Nguyễn Khoa Nam.
    Họ được ở trong đó khá lâu hơn dự định.
    Trời sâm sẩm tối dần.
    Họ, cả hai, ra về lặng lẽ, ra khỏi cổng, không hẹn mà hai người cùng quay lại, chào và đảnh lễ rất thành kính. Mùi khói nhang thoang thoảng lùa theo. Vẫn lùa theo.
    Cũng từ xa đến, có một vạt hò màu nâu chạy lẹ ra như chiếc lá bay, thì ra, vẫn là chú Quảng Định. Chú gọi với để kịp tặng họ hai phần cơm chay của chùa cuối ngày kèm với hai phong bao lì xì.
    Khuya đó, thật khuya, sắp dứt điểm ngày tết, thầy Trí Thủ mới băng ngang vườn cây lên tháp, vẫn bóng dáng mảnh khảnh, nhẹ nhàng, ngài thong dong, leo lên từng bậc thang, ngài bấm nhẹ đèn pin và có ý tìm kiếm, cũng có ý như kiểm tra: “Đây, đây rồi, ổng vẫn an vị đây! “Án ma ni bắt di hồng…”
    Thầy ngần ngừ giây lát, rồi nhất định xoay hình người quá cố vào phía trong tường, cho cẩn mật, kín đáo và “tĩnh lặng cho ông, ông tập thiền đi, như ngài Thần Quang… tổ Huệ Khả vậy!  A Di Đà Phật”.

 

– Chúc Thanh

 

Send comment
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu.Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Your Name
Your email address
)
Tạ Đình Tới kết hôn với chị Nghiêm Thị Bình đã được hơn mười năm. Anh là một công chức. Chị làm nhân viên bưu điện thành phố. Anh chị có với nhau bốn đứa con ba gái, một trai, đủ nếp đủ tẻ...
Làm thế nào để giải nghĩa về cái chết? Những điều nằm bên ngoài tất cả mọi sự hiểu biết của nhân gian, nhưng lại nằm bên trong những bí ẩn muôn đời của vị Thượng Đế ở mãi trên trời cao kia. Lại càng không thể bàn tán gì, khi cơn đau ốm, bịnh hoạn đó đang không phải là của chính mình...
Trời đã xế chiều, chúng tôi cũng chuẩn bị trở về Hà Nội. Vừa ra khỏi cổng thành Cổ Loa, Thi xuống xe và sà ngay vào một quán bên đường mua mấy cái bánh gai gói bằng lá chuối khô được xâu vào với nhau bằng sợi lạt. Thi nói mua về để tối nay ra sân ăn bánh, uống trà...
Ông cụ Hồi mở cửa tiễn khách. Cũng là bạn hàng xóm thôi, nhưng gần nhà mà xa cửa ngõ. Hai khu vườn đâu lưng, cửa ngoài thì nằm ở hai con đường khác, đi bộ cũng mất mười lăm phút. "Bác về nghe. Khi rảnh sang chơi." "Lóng rày hai cái chưn tui yếu lắm rồi bác. Muốn nhờ con cháu nó đưa đi thì sợ phiền bác ơi. Mình qua đây nó khác bển nhiều lắm."
Gần năm giờ chiều Nghi đã nghe nóng ruột. Thời gian ở đây chậm như con rùa bò, Nghi nhìn lên tường nơi có treo cái đồng hồ to tướng, những cây kim như đứng lại. Nghi nhớ lời hẹn hò với Hường trước khi anh đi làm, sáu giờ rưỡi gặp em nghe, sáu giờ rưỡi anh đi làm về là gặp em liền, đợi anh về ăn cơm với em...
Cuối tháng mười đất trời phương ngoại vàng lên rực rỡ, muôn sắc màu nhuộm thắm cỏ cây. Những mảng màu đẹp không sao tả nổi, những buổi hoàng hôn càng làm cho sắc màu đã đẹp lại càng đẹp hơn. Đi dưới tán lá rừng rực rỡ, những khoảng trống bên trên long lanh nền trời xanh ngăn ngắt, dưới chân lá xào xạc đùa vui như con trẻ...
Hôm nọ tôi có dịp chạy về khu neighbourhood cũ, đi ngang qua căn nhà cũ mà bồi hồi xuyến xao bao nhiêu kỷ niệm. Lúc ấy gia đình chúng tôi mới từ thủ đô Ottawa chuyển về thành phố này, các con còn bé nên việc tìm một căn nhà có đủ tiêu chuẩn gần trường học, gần nhà thờ, gần chợ Việt chợ Tây cũng hơi khó. Cuối cùng thì căn nhà tạm ưng ý được chúng tôi lựa chọn vì mới được xây, dù là ở dưới phố khá ồn ào chen chúc...
Chẳng bao lâu, chúng tôi đã tới trước cửa thành phía nam tức cửa Nam, cửa chính của thành Cổ Loa. Trước cửa thành có sông Hoàng Giang chảy bao bọc, ôm lấy thành từ hướng đông nam, qua nam, rồi vòng sang hướng tây nam của thành để làm “hào thiên nhiên” bảo vệ thành ở vòng ngoài...
Ngày thứ tư. Một ngày trước khi lên máy bay trở về thành phố của mình, nàng lăn ra ốm. Cảm thôi, nhưng cảm nặng. Bắt đầu bằng một đêm không ngủ nghẹt cứng mũi và hôm sau dật dờ và mệt như ngàn tảng đá đè nặng lên người. Chắc chắn không thể lết lên máy bay nổi vào hôm sau...
Tôi lớn lên từ khu xóm gần hồ Tịnh Tâm. Trong xóm tôi ở toàn các ông Giáo, ông Trợ, ông Phán, ông Nghè, ông Thông được ghép tên thật phía sau, và người ta thường gọi như thầy Trợ Hiếu, bác Phán Quỳnh, v.v... Tôi xin kể về gia đình bà Thông Hợp và gia đình thầy Giáo Mạnh...
Tiệm giặt ủi “Simply Launderette & Dry Cleaning”, phòng ngoài, chỗ tiếp khách. Không có khách. Người phụ nữ tên Mai Thi Nguyen đang ngồi sau cái bàn trên đặt cái máy tính tiền, nằm cạnh cái quầy. Mai Thi Nguyen, từ giờ chúng ta sẽ gọi là Mai, chủ động lấy điện thoại ra gọi...
Tôi nhận được điện thư với tựa đề: Quang Ngai – IVS (International Voluntary Services) English School – Trường ông Dave. Tôi rất ngạc nhiên, nhưng thật vui. Tên người gởi là Nguyễn Văn Kông. Tôi nhớ ngay đến thầy giáo Kông của IVS Quảng Ngãi...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.