Hôm nay,  

Anh Em

21/12/202314:29:00(Xem: 2421)
Truyện

Nam Bộ

Ông Tư và ông Năm có một những ngày tuổi thơ rất xanh màu da trời và rất hồng màu ráng chiều, nghĩa là ở một vùng quê có dòng suối Sầu Đâu và dòng sông Tam Mỹ. Dòng suối chảy vòng vòng qua những làng trên xóm dưới. Dòng suối cạn nên hai đứa bé cởi bò, bơi qua suối trong những ngày mùa gặt, cả khu Đồng Đất ồn ào rộn rịp, ca bài ca gánh gánh gánh gánh thóc về.
    Những ngày tuổi thơ vắt ngang lưng những sợi tơ vàng, khu Đồng Đất, xóm Gò, suối Sầu... Người mẹ tất tả sáng sớm thức dậy nấu cơm, nấu đồ ăn, cùng người cha ngồi trong căn nhà bếp. Hai ngưới nói chuyện râm rang, chuyện trời mưa trời nắng. Con Mơ con nhà bà Đương lấy chồng về xóm Đồng Rạ, sống không được thế nào ấy, mà bỏ về nhà khóc bù lu bà la. Thằng Quê bỏ quê mà đi vào Sái Gòn lập nghiệp rồi, nó than, quê hương chó ỉa. Thằng ba Đạt vào biệt kích đánh trận đâu trên Kỳ Sơn chết đem xác chở về chôn ở xóm Gò. Con tám Hường con ông Thông cũng bỏ chồng về sống với bà An, làm cái chòi ở xóm ông Đốc. Những chuyện trời mưa trời nắng đó, đã đưa cha mẹ trở về tháng ngày tuổi thơ đầy trăng sao hoa mộng của những mùa trăng thơ ấu cũ.
    Rồi những ngày ông Tư đi lính đóng tuốt xa đâu ở vùng hai chiến thuật, còn ông Năm cày lội lên thác xuống ghềnh ở vùng một, đầy bom mìn, lựu đạn, AK.
    Cũng may, hai ông đã thoát qua khỏi cơn chiến tranh đau đớn, xao xác đó.
    Ông Tư đi tập trung ở Trảng Lớn. Rồi đi qua khắp cả những trại tập trung hung hản nhất, thì ông Năm cũng vào lò cải tạo...Suốt trong gần mấy năm xa cách, hai anh em không gặp nhau. Những đêm thâu trằn trọc không ngủ được ở Trảng Lớn, ở Thành Ông Năm, ở Suối Máu, ở Long Giao, ở Long Khánh, hai ông chỉ mong ra hiện trường sản xuất để thấy nhau, ngó nhau chút thôi cũng được, nhưng vẫn không thấy, vì ở hiện trường lao động sản xuất, số tù đông như kiến. Chỉ biết nhau do người nhà thăm nuôi kể lại, thằng G đang cũng ở khu này, mi có gặp không? Đâu có gặp, trong hàng rào kẻm gai mà làm sao gặp được. Chị Ba nói như hai người đang sống ở ngoài đời vậy.
    Ông Tư về trước ông Năm mấy năm, ông lại từ miền nam về trung, xuôi theo chuyến tàu chợ, chở đầy súc vật, mắm, muối, gạo, rượu, của đám người đi buôn hàng chuyến. Ông phải đi bộ thêm hai mươi cây số nữa mới tới chỗ ông Năm. Nhìn dáng thằng em gầy trơ xương ông thương quá là thương, nhưng rồi ông nhìn lại mình, cũng vậy chứ có khác chi mô, cũng trơ xương như người trong nạn đói năm Ất dậu.
    Hai anh em nghẹn ngào không nói được câu nào ra hồn, ông Tư, ừ thì ngoài mình cũng bình an, nhờ ơn cách mạng anh có công ăn việc làm, ở kinh tế mới anh vào rẫy cày sâu cuốc bẫm cũng đủ ăn...ông Năm, cảm ơn cách mạng, em an tâm học tập tốt lao động tốt, mong sớm về với gia đình.
    Thời gian trôi qua, đến sáu năm, ông Năm trở về. Ông đã lên cùng ông Tư cũng chun vào rẫy bái ở khu kình tế mới...cũng cày sâu cuốc bẩm mà kiếm không ra đủ hột gạo để nuôi thân...
Rồi hai ông cũng lê thê lếch thếch kéo nhau về Sài Gòn, ông Năm chạy xích lô, ông Tư đi bỏ hàng lặc vặt kiếm ăn qua ngày. Buổi chiều khi mọi chuyện đã xong thì hai ông hẹn nhau xuống quán cơm bà cả đọi. Như vậy cũng suốt bốn, năm năm...
 
*
 
Rồi cũng hai mươi năm sau, gió hải ngoại rít lên qua những tầng mây xám.  
    Ông Tư về vùng đất lạnh bên trời tây bắc. Ông Năm về vùng nắng ấm. Những hai mươi năm sau hai ông mới gặp lại (dù hằng năm ông Tư cũng về thăm thằng năm mấy lần).
    Tương phùng. Đúng là tương phùng.
    Tóc hai ông già đều bạc. Nhưng xí xọn chút cho coi được, cho như còn thời trai trẻ, cố lấy lại tuổi thanh xuân. Tóc hai người đều nhuộm. Trông  trẻ hơn, nhưng sức nặng của thời gian đã đè xuống, khiến hai ông nhin đời bằng con mắt ngơ ngơ. Tóc ông Năm nhuộm đen tuyền còn ông Tư màu nâu sẩm. Họ cố kiếm nhà ở gần nhau. Hai ông lại vẫn sáng, trưa, chiều, tối, bên chung trà, bên chén rượu.
    Một buổi sáng bà Tư gọi ông Tư, ông ơi, ông ơi. Tai ông Tư bây giờ điếc đặc. Cái điếc của ông cũng mấy năm rồi, nhưng nó từ từ đến. Đến bây giờ ai nói, phải kê sát miệng vào tai ông nói lớn. Người ngoài nghe tưởng là có chuyện gì họ cự nự nhau.
    Bà Tư nói với ông Năm, ổng điếc lắm, tui cũng mệt cho ổng. Nói chuyện với ổng phải múa chân múa tay. Nói vậy nhưng bà thương ông, thường pha cho ông bình trà ngon, nấu cho ông tô ốc miu loãng để ông ăn sáng. Ông thích nhâm nhi ốc miu bên li trà và ngồi lướt net.
Ông Năm là người sa đà những chuyện vớ vẩn trên đường tình. Qua bà thứ nhất vì tù tội, nên ông trở về mỗi người mỗi ngã. Ông kết bà hai, cũng gãy đổ. Rồi đến bà ba. Cũng bỏ đi, ông nghĩ đàn bà sao dữ như con chằn lửa. Bà ba lại bỏ đi, săm soi đời ông từ ngày ông còn cởi trường, leo lên lưng bò tắm suối.
    Ông lại trở về nỗi cô đơn thui thủi một mình.
    Ông Tư thấy đứa em lận đận như vậy quá thương. Dù biết rằng mỗi người có một số trời định, nhưng thằng em của ông là một đời nghiệt ngã. Biết ông Năm có số đào hoa, nhưng thật ra, ông không lang bang, bạ ai yêu đó. Ông yêu ai, lấy ai, là yêu chết bỏ và trung thành chết bỏ. Ông không có cuộc ngoại tình nào.
    Nhưng dù có trung thành bao nhiêu đi nữa, thì (các) bà Năm cũng ghen nhau. Bà Năm ba tìm đâu một tấm hình cũ của bà Năm hai chụp với người chị, một thời xa lắc, liền tru tréo lên những lời phỉ báng độc địa rồi khăn gói bỏ đi. Ông Năm có giải thích thế nào thì cũng là những lời vô vọng. Ông đành im lặng nhìn trời hiu quạnh.
    Đàn bà là con ma. Ông Năm thường tự nhủ mình vậy, nhưng thiếu vắng con ma lòng ông tự dưng ông thấy nhớ. Trở về mái nhà xưa với các bà Năm: một, hai, ba, không được, ông phải đi tìm một người khác thế thân.
    Đó là cái số, ông Tư thương thằng em lao đao vì chuyện đàn bà. Nhưng biết làm sao? Thôi thì nó đi đâu cố đi theo nó.
    Ông già bảy bảy đi theo lẽo đẽo bên ông già bảy ba. Cà phê ngồi quán ông bảy ba phải nói thật to lên, chứ không thì ông bảy bảy cứ ngửa cổ lên ngóng. Cái gì, mi nói gì tau không nghe rõ. Điếc mà, mi không biết sao?
    Cuộc nói chuyện có lúc sôi nổi như cải cọ chuyện gì.
    Ông Năm nói nhỏ vào tai ông Tư. Tui phải kiếm một bà nữa anh Tư ơi. Một mình vò vỏ quá.
Ông Tư gục gặc cái đầu.
    Ừm. ườm.
    Ông Tư im lặng, ông muốn nói một điều gì đó cho ông Năm biết theo sách giáo khoa thư, như nhân nghĩa lễ trí tín, hay với người đàn bà phải tam tòng tứ đức, công dung ngôn hạnh... Ông gục gặc cái đầu chưa kịp nói ra thì ông Năm nói trước:
    Thôi, nghĩ cũng mệt quá anh Tư à, em đã từng tuổi này mà phải bắt đầu từ con số không thì mệt quá. Em xin nghỉ xả hơi cho khỏe. Mình một mình ngủ nghỉ ung dung, không có ai quấy rầy thì tốt nhất. Thỉnh thoảng xuống thăm con, bồng cháu, giỡn hớt với tụi nó cũng vui. Rồi chiều chiều qua anh cùng anh chè chén...lai rai ba sợi, cũng đủ lãng quên đời, thế là vui rồi, phải không anh Tư.

    Ông Tư e hèm.

    Ườm, ườm...

 

– Trần Yên Hòa

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đám tang vỏn vẹn chỉ có hơn chục người đến viếng, những người tới đây đều chép miệng xót thương cho hai chị em còn nhỏ mà đã mồ côi cả bố lẫn mẹ. Nhìn đứa em nhỏ dại ngồi nghịch những gói đường, hộp sữa người tới viếng mang cho mà Thương không cầm được nước mắt.
Thế là một ngày đẹp trời y bỗng nảy ra ý nghĩ: "Sao mình không thử làm văn sĩ?”, nói là làm ngay. Y vội lấy giấy bút và ngồi vào bàn hẳn hoi. Y lại nghĩ: "Phàm làm việc gì cũng phải có lễ, khai trương bá cáo cho thiên hạ biết, huống chi đây là việc quan trọng của đời người và còn ảnh hưởng đến đời sau”, nghĩ thế bèn đứng lên chỉnh sửa y phục thẳng thớm trang nghiêm, chải tóc, rửa mặt cho trông dễ coi một tí,
Cái thằng trông như một xác chết. Hay nó chính là xác chết vừa đội mồ sống dậy. Nhìn nó không khác gì một con zombie thường thấy trên ti vi. Cái mặt đờ đẫn, chân tay lỏng khỏng, áo quần rộng thùng thình. Vậy mà nó lại quàng được vai một đứa con gái. Một đứa con gái thấp hơn nó một nửa cái đầu. Rõ ràng là một đứa con gái. Một đứa con gái Á Châu. Tóc ngắn tua tủa trộn ba màu đen, đỏ, vàng. Mắt to kẻ viền đen. Cặp vai trần trắng muốt, hai vòm ngực đội cao nếp áo thun đen. Hai đứa nhùng nhằng bước vào tiệm. Vào hẳn trong tiệm rồi, chẳng thèm chào hỏi ai, thằng thanh niên ôm con nhỏ, cúi xuống, dán môi nó lên môi con nhỏ, mút và kéo môi dưới đứa con gái dài ra, để tuột ra cái âm thanh chùn chụt.
Tôi được phái đi công tác trong chiến dịch OIR, Operation Inherent Resolve, ở Tây Bắc Iraq, đúng vào những tháng Hè nóng oi bức như đổ lửa. Những cơn mưa ở đây không bao giờ xảy ra vào mùa Hè, chỉ vài cơn mưa rào vào mùa Đông, nên không khí như đặc quánh lại, nóng nung người và bụi tung trời.
Trong khi Quỳnh thả hồn theo tình ca Bóng Chiều Xưa của Dương-Thiệu-Tước, Đằng tần ngần nhìn theo nàng. Khi chiếc SUV của Quỳnh lăn bánh, Đằng thở dài, chợt nhớ một câu rất ý nghĩa để tự xoa dịu tự ái của chàng: “If you love something, set it free. If it comes back, it is yours. If it doesn’t, it never was.”
Trằn trọc trở mình mãi mà không ngủ được, mắt nhắm nghiền, các bộ phận khác như tim. gan, phổi, dạ dày… đều lắng yên, duy chỉ có bộ óc thì không nghỉ, thậm chí nó còn tăng cường mạnh hơn. Bao nhiêu ý tưởng ùn ùn trồi lên như mối ùn ổ. Những cảnh tượng huyễn hoặc hay thực tế cứ loang loáng xuất hiện rồi tan biến tựa như hoạt cảnh trên màn ảnh truyền hình. Y cố định tâm như cách các tu sĩ, nào là niệm Phật, trì chú, quán hơi thở… nhưng chẳng ăn thua gì.
“Hình con gái ông phải không?” Bà cụ người da trắng ngồi bên cạnh hắn lên tiếng hỏi. Hắn giật mình, sửa vội lại thế ngồi cho ngay ngắn, bàn tay phản ứng bằng cách gấp vội cuốn sách lại như lúc bị bắt gặp nhìn trộm một tấm hình khiêu dâm, rồi bối rối mở rộng trang sách, cho tấm hình trải rộng ra trước mặt hai người. Hắn bẽn lẽn quay qua nhìn bà cụ. “Sao bà lại nghĩ đó là hình con gái tôi?”
Câu chuyện nhỏ, do cơ duyên, xảy ra đã lâu, dường như lâu tới hơn hai thế kỷ! Lâu vậy, mà như không lâu, câu chuyện, ngỡ bình thường mà lại không bình thường nếu người trong cuộc không có tên là Thomas Jefferson. Đó là một buổi chiều mùa đông lạnh giá tại miền Bắc Virginia. Con đường hun hút không một bóng người, dẫn tới bờ sông dòng nước hung hãn chảy xiết là nỗi tuyệt vọng của một lão ông đơn độc, đang nhìn thấy thần chết mỗi lúc mỗi đến gần.
Tôi là một nhân viên dân sự hay đi công tác xa nhà để hỗ trợ kỹ thuật cho các đơn vị lính chiến Mỹ đóng đồn ở các nơi tiền tuyến xa xôi, nguy hiểm, và gian khổ như Iraq, Afghanistan, Châu Phi. Dĩ nhiên khi sống trong các trại lính, tôi cũng phải sống kỷ luật như lính và đương nhiên ăn, ngủ trong lều bạt cũng như lính. Không có một sự ưu đãi nào hơn lính. Hôm nay tôi kể bạn nghe về việc ăn và uống của họ khi được ăn những bữa ăn nóng hổi hoặc khi phải nhai lương khô, để bạn thấy được khi xa nhà, họ nhớ và thèm đến thế nào những bữa ăn bốc khói ngon lành của mẹ, của vợ nấu khi ngồi quây quần chung quanh bàn ăn gia đình dưới ánh đèn ấm áp tràn đầy tiếng cười vui. Thuở xa xưa khi quân đội còn chiến đấu bằng vũ khí thô sơ như gươm giáo, cung nỏ, bất cứ đoàn quân nào, khi chinh chiến xa, chỉ có xe lừa, ngựa chuyên chở chậm chạp, người chỉ huy đều phải tính sao cho có đủ lương thực nuôi quân thì mới mong đánh thắng được kẻ thù. Mỗi người lính ngày xưa chỉ đem theo mình cao lắm là khoảng
New York City đang dần dần hồi sinh. Tháng Tám nầy sẽ có “home coming concert” ở Central Park để ăn mừng, nghe đâu có mời Simon và rất nhiều người tiếng tăm khác.
Châu Về Hợp Phổ - đó là câu nói của Bs Nguyễn Đức Tùng, khi ông có nhã ý trao tặng bức tranh khảm xà cừ để chúng tôi đưa về Mẹ tôi. Chúng tôi thoạt đầu rất áy náy nhưng khi hiểu rõ câu nói và tấm chân tình của ông thì hân hạnh và cảm động được làm người nối tiếp cuộc hành trình 50 năm của bức tranh hy hữu. Bên dưới góc phải của bức tranh là tấm bảng nhỏ ghi tên người tặng là Ba tôi, đại tá Nguyễn Ngọc Khôi đang trong chức vụ thị trưởng Đà Nẵng và người nhận là trung tướng Donn J. Robertson, thuộc Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ.
Người đáng sợ hơn ma, chỉ có người mới sân hận thù ghét, chỉ có người mới đâm bị thóc thọc bị gạo, dèm pha phỉ báng; cũng chỉ có người mới tham lam tranh đoạt bằng mọi giá và cũng chỉ có người mới chơi đểu, chơi dơ, chơi xấu... Người hại người mới ghê gớm và tàn bạo.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.