Hôm nay,  

Ngôi chùa ngày Xuân

04/02/202408:10:00(Xem: 2695)
Ký Xuân

chùphue

Chùa Phước Huệ, (Tacoma, WA) trong ngày tuyết



Tôi còn nhớ một cái Tết năm xưa, tôi lái xe đưa gia đình từ Seattle xuống Tacoma một thành phố lân cận để đến lễ đầu năm tại một ngôi chùa và chọn cho đúng hướng xuất hành năm mới. Ngôi chùa này và nhà sư trụ trì còn trẻ, lại là một nhà thơ mà tôi đã nghe một người bạn nhắc đến và đây là lần đầu chúng tôi đến lễ. 
    Tên chùa là Phước Huệ, nhà sư trụ trì có pháp danh là Thích Phước Toàn, hai cái tên thật là chân phương. Danh vị của nhà sư là Tỳ Kheo, khác với nhiều chùa các vị trụ trì đều là Hòa Thượng hay Thượng Tọa, điều đó không có gì khác biệt đối với sự hâm mộ của tôi với nhà sư. Các chùa khác thường tọa lạc trong thành phố, xung quanh là khu dân cư, chùa Phước Huệ ở xa thành phố, trong một vùng có những cánh đồng còn trống và có những khu rừng nhỏ còn xót lại. Chùa lúc đó còn ở trong một căn nhà nhỏ đơn sơ nằm sát bên đường, trên một khu đất khá rộng nhiều mẫu đã được tạo mãi, bốn bề vuông vắn, bằng phẳng.
    Khi chúng tôi đến, buổi lễ vừa chấm dứt. Tôi có dịp đi quanh chánh điện và phòng khách đọc những câu thơ được lồng trong khung kính tỏa chất Thiền viết theo cách thư pháp nghiêm chỉnh và phóng khoáng.
    Thấy có khách lạ, nhà sư ra tiếp. Chúng tôi cúi đầu chào và thưa chuyện; tôi gọi nhà sư là “Thầy”, người có nhiệm vụ dẫn chúng sinh vào đạo pháp. Thầy gọi tôi là “Bác”, vì tuổi tôi đã khá cao. Thầy mời sang phòng bên dùng trà. Chúng tôi cùng ngồi xuống một tấm phản lớn, ở giữa đặt một cái bàn làm bằng một khúc rễ cây lớn cưa phẳng tráng một lớp nhựa bóng. Thầy rót nước nóng vào bình trà cổ và đợi một lúc chuyên ra các chén nhỏ. Chúng tôi cùng nâng chén, hương trà thơm thoảng hương vị trang nghiêm của giây phút đầu Xuân. Sau khi thăm hỏi, tôi có nhắc đến tập thơ của thầy vừa xuất bản. Thầy đưa tôi tập thơ, tôi lần giở từng trang, hầu hết là những bài thơ đượm chất Thiền. Tôi chọn những bài thơ mà tôi ưa thích và xin phép đọc. Sau mỗi bài chúng tôi ngưng lại bình thơ và điểm những từ tuyệt cú trong bài.
    Giọng Huế của thầy rất nhẹ, bỗng nhiên tôi nhớ đến những ngày hè tôi ở Huế. Cha tôi làm việc ở Đà Nẵng, tôi theo học ở Saigon, cứ mỗi kỳ hè là tôi về thăm gia đình. Đó là những năm cuối thập niên 50. Lần đầu tôi đi bằng đường bộ, có lần bằng đường thủy và sau này bằng đường xe lửa. Đi xe lửa không mất tiền vì cha tôi làm cho sở Hỏa Xa. Tôi thường lên Huế ở hàng tuần với các người bạn mới quen, đạp xe đi thăm gần như hầu hết các lăng tẩm, các ngôi cổ tự cùng những nơi có những cái tên đọc lên là thấy “Huế” rồi.
    Thời niên thiếu, ở miền Bắc tôi đã đi qua những làng quê điêu tàn hồi tiêu thổ kháng chiến trong chiến tranh Việt Pháp, không có thời giờ cảm nhận được tình quê hương, nhất là sau này vì những hà khắc của một chế độ nghĩ đến mà còn rùng mình. Khi trưởng thành ra trường tôi được phục vụ tại các tỉnh và quận xa ở miền Nam. Những lúc ngồi xe đò qua những cánh đồng lúa bát ngát, những chiều qua phà Vàm Cống, nhìn dòng sông rộng với những đám độc bình bị nước cuốn trôi nhanh trên dòng nước, thấy cái tình quê sao nó mênh mông trôi nổi đến thế. Nhưng với miền Trung , với Huế thì khác hẳn, có lẽ vào cái tuổi đôi mươi, tôi dễ cảm thấy cái tình tự, cái tình quê hương của miền đất này nó khác hẳn, nó cô đọng, tha thiết hơn nhiều, chẳng thế mà có rất nhiều bài hát về miền Trung và nhất là về Huế được làm ra , được hát lên vẫn làm cho người ta phải rưng rưng .. Tôi nghĩ rằng thầy Phước Toàn cũng đã có những ngày như chúng tôi ở đó.     
   Ngồi uống trà và đọc thơ với thầy đã lâu, sợ làm mất nhiều thời giờ, tôi xin phép tạm biệt. Khi bước chân ra ngoài, tôi chợt thấy một quả chuông lớn, một “Đại hồng chung”, được đúc với những hoa văn, linh vật và cổ ngữ chân truyền được treo tạm bên hiên. Ít lâu sau, tôi đọc một tờ báo địa phương báo tin là quả chuông này đã bị mất cắp. Ai cũng nghĩ chuyện như thế rồi cũng qua, của mất đi có bao giờ tìm lại được. Thế mà khoảng hai năm sau, tôi đọc báo có tin là quả chuông đã có người đem trả lại. Tôi nghĩ quả chuông nặng hàng tấn như thế chắc phải cần đến mấy người khuân và phải dùng xe truck mới đem đi được. Thật là có một sự linh thiêng huyền diệu nào đó đã chuyển hóa được lòng người.
 
***
 
Bây giờ chùa được coi như đã gần hoàn thành. Khuôn viên chùa nay trông như rộng ra, mênh mông. Bãi đậu xe rộng rãi, không vất vả phải tìm chỗ như nhiều chùa khác. Chùa không xây dựng theo cách hoành tráng, mà đơn giản, nhã nhặn.
    Khách thập phương đến thăm chùa, đậu xe xong, hãy để một chút thời giờ thả bộ đi quanh chùa mới thấy những nét đặc thù của chùa được thiết kế theo tính cách thật là nghệ thuật. Chúng tôi đã có dịp  đi như thế một vài lần. Ngay cổng vào, một hồ nước theo hình chữ S, hình của nước Việt Nam. Những gốc cây lớn, những bụi hoa nhỏ quanh đó được chăm sóc như một bức tranh cổ bao bọc hình ảnh đất nước mà mình đem theo. Hãy ngồi ở đó mươi phút và nhớ đến hai câu thơ:
 
Mái chùa ấp ủ hồn dân tộc
Nếp sống muôn đời của tổ tiên.
(Hòa thượng Thích Mẫn Giác) 
 
Đi theo phía bên trái khuôn viên, là hai hàng tượng Phật và La Hán đứng trải dài. Hãy để lòng thanh thản, bước đi thong thả như những bước thiền hành. Hãy đứng lại trước từng pho tượng, trong cái tĩnh lặng đó, hãy ngắm dung nhan từng vị và chậm rãi đọc những câu kệ, câu thơ được khắc cạnh đó, để những câu đó thấm vào mình. Nếu có con cháu đi theo, hãy bảo chúng đọc lên những hàng Anh ngữ được chuyển dịch và nếu có thể hãy giảng cho chúng biết ý nghĩa của những câu kệ đó. Cái hồn dân tộc, cái nếp sống tổ tiên chắc cần phải được truyền lại cho các thế hệ kế tiếp.
    Phía bên phải khuôn viên có những thảm cỏ xanh, có tượng Phật nằm, hãy tìm một chỗ ngồi. Ngồi trong tĩnh lặng, ngồi trong tỉnh thức để chiêm nghiệm Phật đã nghĩ ra những gì để dẫn dắt chúng sinh. Đạo và Đời thường đi song hành với nhau. Trong Đời có Đạo và Đời sinh ra Đạo. Đạo thì nhập thế như một triết lý để dẫn dắt chúng sinh về Chân Thiện Mỹ. Đời thì biến dạng luôn nhanh như điện tử và kinh kệ vẫn là những chân lý nguyên thủy từ ngàn năm xưa không thay đổi. Phật ở trong ta, trong ta có Phật tính. Ta sẽ thành Phật khi ta biết tu hành trọn đạo.
Hãy đi vào chánh điện lễ Phật, ngôi tượng Phật lớn trong ánh hào quang, hoàn toàn bằng gỗ mộc, không tô điểm nạm vàng sơn son thiếp đỏ.
    Cũng đừng quên, hãy nhẹ nhàng lên tầng lầu phía sau chùa, được coi như một bảo tàng nhỏ sưu tập đến trăm bộ đồ trà cổ hiếm có mà tưởng tượng đến người xưa cùng đối ẩm trong trà đạo.
   Ngày tết đi lễ chùa, hãy ở lại xin thầy vài chữ chúc Tết cho năm mới như trước kia người ta thường nhờ các ông đồ già viết câu đối mừng Xuân. Chữ của thầy viết trên các chiếc đĩa nhựa trắng, không thua kém gì những nét như phượng múa rồng bay của người xưa.
    Nhân dịp đầu Xuân, tôi xin chép lại bài thơ của thầy, nhà thơ Tuệ Minh để quý vị thưởng ngoạn:
 

Trường Xuân

Ta về thăm lại một người
Dưới chân Cửu Lũng và đôi gốc tùng

Ta về thăm lại nắng hồng
Nắng pha màu nắng, hương xông ngọt ngào
Khói hương quyện tỏa cao cao
Lửng lơ trước gió, hoa đào ngây ngây

Xuân còn tất cả còn đây
Còn trong ánh mắt, còn đầy con tim
Nghìn xưa tôi vẫn đi tìm
Giáp phòng sinh tử, lặng im kiếp người

Ở đây tôi lại gặp tôi
Gặp mùa Xuân trẻ, đất trời thênh thênh
Cảnh xưa còn đó yên lành
Suối từ Tịnh Thủy biến thành Trường Xuân.

 

– Nguyễn Công Khanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.