Hôm nay,  

Nhớ Huế

14/03/202407:44:00(Xem: 2478)
Tùy bút

ao tim ben cua

Tôi thuộc lứa sinh viên “tú tài Mậu Thân, cử nhân Nhâm Tý”, nhưng chỉ được vế đầu, còn đỗ cử nhân thì phải đợi đến… Giáp Dần (1974)! Có lẽ số tôi lận đận trong học hành, thi cử! Đó là nói vui hoặc là an ủi, sự thực là đậu tú tài ban B hạng bình thứ, nhưng đậu không nổi vào Nông Lâm Súc Sài Gòn bèn phải ghi danh học MPC Đà Lạt. Học cả năm không đậu đành hát bài “quy cố hương”.
    Anh chị trong gia đình vẫn muốn tôi tiếp tục ghi danh vào Đại học Khoa học nhưng phần vì khiếp Toán Lý Hoá, phần vì hồi ở Đà Lạt thỉnh thoảng hay theo số sinh viên sử địa đi du khảo nơi này nơi khác nên thích học địa lý, phần khác là vì mê môn sử từ những thầy dạy hồi trung học, nên chàng ta bèn “dũng cảm” ghi danh học Sử Địa Đại học Văn khoa (Huế). Niên khóa 1968-69, Đại học Văn khoa bắt đầu theo chương trình “niên chế” và tôi vào năm thứ nhất chương trình này.
   Là dân Quảng, cha tôi và một anh, một chị đã từng học và làm việc ở Huế nhờ đó tôi cũng đã có vài lần đến Huế lúc còn nhỏ nên vẫn có cảm tưởng thân thiết, hơn nữa khi ra đó lại ở tại Cư xá sinh viên Huỳnh Thúc Kháng của hội Ái hữu đồng châu Quảng Nam, toà soạn cũ của báo Tiếng Dân.
    Nhờ những thuận lợi đầu tiên đó, cùng với việc ở cư xá chỉ biết lo học, tôi học hỏi được nhiều thứ, từ cách sống tập thể đến cách tìm tòi tra cứu, cách trình bày một bài làm ở những người anh em học năm cuối Việt Hán, Luật nên ngay năm đầu tiên, kết quả học tập tương đối khả quan.
    Hè năm ấy, học quân sự học đường ở Phú Bài một tháng, vì đã có 5 tuần học ở Trung tâm huấn luyện Lam Sơn Ninh Hoà do đại học Đà lạt gửi xuống, tôi học với những sinh viên năm 2 của tất cả các phân khoa.
    Với lý do tìm cách hoãn dịch sau khi ra trường, thay vì tiếp tục học năm 2, tôi nộp đơn thi vào Đại học sư phạm Huế. Ngày vào vấn đáp, một số người có trường hợp như tôi từ quân trường, mặc đồ lính, tóc húi cua về thi. Bây giờ, hơn bốn mươi năm đã qua, nhớ lại vẫn thấy buồn cười… Vậy là, nếu chỉ cần thêm một năm như thế nữa, tôi đã đậu bằng “cử nhân năm thứ nhất” (?)
    Năm đầu tiên ở Đại học sư phạm, lớp tôi có Hoàng Văn Tôn, dân Đà Nẵng ra học. Không lâu sau, hắn trở thành “dân chơi” ở lớp, ở khoa, ở cả ngoài đường vì đã có thành tích ăn chơi từ trung học. Tôi với Tôn nhanh chóng thân nhau, dù tôi chỉ thuộc hạng “ăn chơi nửa mùa” thỉnh thoảng cũng đi giang hồ vặt theo kiểu “nghe tiếng cơm sôi bỗng nhớ nhà”!
    Tôn trọ học ở nhà ngoại, đầu đường Huỳnh Thúc Kháng, gần cư xá tôi ở. Qua Tôn, tôi quen biết gia đình Đặng Ngọc, phòng vẽ Ngọc Duy, Thanh Nhã (Văn), Thanh Hải (Anh văn) cùng năm Lệ Hà (Văn ) khoá sau để rồi vòng giao tiếp mở rộng dần đến một số sinh viên âm nhạc, mỹ thuật, tạo tác… Nhóm chúng tôi chọn nhà Nhã làm “tụ điểm sinh hoạt”, uống café, nghe nhạc, trà đàm, nơi chờ đợi nhau để cùng đi ciné, coi triển lãm mỹ thuật, nghe các buổi hoà nhạc, diễn thuyết, các bài giảng môn “con người và môi trường sống”… thậm chí cùng nhau đi ngắm người trong các buổi xuống đường, tuyệt thực, tranh đấu.
    Chúng tôi vẫn luôn luôn tâm nguyện và nhắc nhau phải học để cuối năm có kết quả cao nhất! Lên năm ba, lại sinh hoạt với phong trào du ca Huế, đi hát “uỷ lạo chiến sĩ tiền đồn” nhân ngày Giáng Sinh ở các căn cứ Bastogne, Checkmate,  Birmingham… Đó là chưa kể những lần đi cứu trợ bão lụt, dọn nhà cháy cùng với sinh viên liên cư xá. Nhớ những ngày di tản về Đà Nẵng sau mùa hè đỏ lửa 1972, ưu tư về thời cuộc thì ít mà nỗi lo không biết ngày nào được ra lại Huế thì nhiều. Nên khi có ai đó, trong những ngày chiến sự ác liệt, ra được Huế rồi trở vào, mang theo một biđông nước, chúng tôi đi uống café chung và mỗi người uống một ngụm nước sông Hương mà cứ ngỡ như dân Hồi giáo uống nước thánh đem về từ thánh địa La Mecque!
    Dông dài như thế để các bạn hiểu rằng thằng “yêu đạo” này học thì xoàng mà sao “mâm nào cũng có” ? Cũng dễ hiểu thôi mà! Ở quân trường Đống Đa Phú Bài dứt khoát tôi ở đại đội đàn anh cùng với sinh viên khoá Nguyễn Đình Chiểu, ở  Văn khoa, tôi cùng học với những sinh viên từ sư phạm khoá Lương Văn Can gửi qua và chính thức là SV khoá Huỳnh Thúc Kháng. Sau này, vợ tôi lại là một đàn chị, ra trường từ khoá Nguyễn Đình Chiểu, nên khi ai hỏi vợ làm gì. ở đâu mà cần phải trả lời chi tiết tôi đem cái chiêu bài đã nói ở trên “Tú tài Mậu thân…” ra dùng để lấp cái đàn em thua thiệt về tuổi nghề của mình!
    Xa Huế đã nhiều năm nhưng tôi vẫn giữ thói quen mỗi năm phải về thăm một lần trong dịp hè. Thời bao cấp thăm gia đình vợ, những năm sau này thăm các em vợ còn ở lại Huế, nhưng tận cùng thâm tâm vẫn là thăm cái nôi kỷ niệm ngày đi học, nơi mình đã từng sống, có quá nhiều kỷ niệm khó quên. Và thế nào trong những lần về đó, phải đảo một vòng văn khoa, sư phạm cũ, vào Mai Thúc Loan nội thành để nhớ ngày xưa đi đếm từng cây phượng nở hoa. Thú vị nhất, khi có những buổi chiều cùng với thằng con trai nhỏ đi bộ suốt từ Phan Bội Châu lên Trần Hưng Đạo để tìm lại cái không khí “bát phố” đã trở thành thói quen cuối tuần suốt những năm đi học. Mua một vài cuốn sách, ngắm người đẹp trên phố hoặc tìm lại tâm trạng “Bên cầu đứng ngắm em qua phố.Bận áo vàng xưa bỗng giật mình” (thơ Nguyễn Phước ?). Nhưng sau này vật đổi sao dời nhiều quá nên chỉ còn đọng lại tâm trạng buồn và  nỗi nhớ về “những người muôn năm cũ”!!
    Ra trường, đi dạy, mãi mê lao vào dòng chảy của suối đời gian nan, thử thách, bất an và đầy nghiệt ngã tôi vẫn đầy nỗi nhớ Huế. Nhưng lạ thay, hình ảnh thầy cô nhiều lúc lờ mờ trong ký ức, nhưng kỷ niệm vui chơi với bạn bè thì vẫn hiện lên mồn một. Nhớ những ngày đi học trời lất phất mưa, thả bộ qua cầu với Thanh Nhã, mỗi đứa nói tên một bản nhạc mà tựa đề có chữ xuân, rồi cứ thế, hạ, thu, đông… cho đến khi vào lớp; nhớ những đêm cùng vài anh em cư xá qua tổng hội uống Café chị Giang khi về đã trễ, mỗi thằng xách dép cầm tay qua cầu để nghe mát lạnh dưới bàn chân; nhớ lần ủng hộ Thông, Tiếp, Hải, Ngọc… tranh cử ban đại diện sinh viên sư phạm; nhớ ngày cả nhóm chạy gạo cứu trợ đồng bào Quảng Trị vào ở bên trường tiểu học Lý Thường Kiệt mùa hè đỏ lửa 1972; nhớ những ngày tham dự trại Nối vòng tay lớn của sinh viên quốc nội cùng với một số sinh viên Việt kiều từ nhiều nước về sau hè 1972 rồi lan man nhớ đêm kết thúc đại hội Liên đoàn sinh viên công giáo, để có dịp được nghe Vũ Thành An hát  Anh đến thăm em đêm ba mươi và một ca khúc bản mới Một lần nào cho tôi gặp lại em tặng các chị cư xá Mai Trinh (?). Ơi nỗi nhớ miên man, nỗi nhớ thật khôn cùng nhưng cũng là nỗi nhớ….tuyệt vời!
    Trong  cuốn nhật ký “viết những khi thích” có từ đầu những năm 1980 phần nhớ về Huế tôi đã viết: “Cứ vào những ngày gần giữa tháng chạp, khi bên ngoài lành lạnh và màu nắng trở vàng, lòng tôi bỗng rộn lên những xôn xao khó tả. Nhớ phố, nhớ hành lang văn khoa, văn phòng ban đại diện sinh viên sư phạm ngập tràn tiếng hát “Ngày xuân nâng chén…” trong những buổi tập văn nghệ cho “Đêm Văn Khoa”, “Đêm Sư Phạm ” trước khi trường nghỉ Tết. Đã bao năm qua rồi mà tiếng hát ngày ấy vẫn cứ quyện mãi lòng tôi mặc cho sóng đời vùi dập, mặc cho trái tim thành chai sạn trước những thăng trầm của thực tế cuộc sống!”
    Tháng 10.1974, ra trường về dạy học ở Cam Ranh, tôi, Kim Ngân và Kim Quỳ sống với nhau vô cùng thân thiết. Tôi và Kim Ngân cưới nhau không lâu thì Kim Quỳ đi nước ngoài. Nhiều lúc vợ chồng vẫn cùng nhau nhắc nhớ về Huế, tôi vẫn nhủ lòng: rất may mà mình có một người vợ Huế để có những lúc cùng buồn cùng vui với Huế và cùng… nhớ Huế. Rồi lại có một thời gian hơn 10 năm, tôi chuyển sang làm việc khác ở Cam Ranh, xa nhà gần 50 km. Nhưng khi các cháu đi học rồi đi làm và ở hẳn Sài Gòn, Kim Ngân ở nhà một mình, tôi lại phải quay về và nghĩ rằng mình đã được đào tạo từ Đại học sư phạm Huế nên lại đem kiến thức học được ở trường để tiếp tục dạy một số tiết thỉnh giảng ở trường bán công như là một cách giữ mối dây thâm tình với Huế và mặt khác khỏi phụ lòng mong ước của gia đình.
 
– Nguyễn Hoàng Quý

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị Hai đã uống một ly nước đầy và đi làm việc tiếp. Đoan vào lại chỗ của mình. Như một phản xạ, Đoan lại cho tay vào túi, làm như tìm xem trong đó có sót lại một viên kẹo chăng. Mơ hồ, Đoan nhớ ngày xưa Đoan hay ví một hành động “vớt vát” nào đó như là “tìm con cá sót lại trong chiếc giỏ của cô Tấm.” Mắt Đoan cay cay. Bỗng như thấy mình đang đi vào lại đường cây còng. Mùa mưa, những chiếc lá trên cao đọng nước, rũ nhè nhẹ xuống tóc Đoan, nghe mát. Hai túi áo blouse lúc nào cũng đầy kẹo. Đoan vào trại bệnh. Những dãy giường đầy người. Thay băng xong cho ai, Đoan tặng người ấy một viên kẹo
Ở đây tôi chỉ muốn đưa một vài nét chính của các môn Khí công mà tôi đã tập qua, để người đọc theo đó sẽ chọn được một môn pháp thích hợp cho mình tập. Chả thế người xưa thường hay nói “Tùy bịnh chọn công“, tùy theo thể chất và sức khoẻ mà chọn cách tập Khí công.
Ngày tựu trường năm nay, trường Việt Ngữ Suối Mở Offenbach đón tiếp 14 học trò mới với tuổi tác, trình độ tiếng Đức, tiếng Việt chênh lệch khá nhiều. Tạm thời, cô giáo gọi lớp này là Lớp Mới. Giờ học đầu tiên, cô giáo chưa thực sự “dạy” chữ, chỉ “dỗ” các học trò. Hy vọng học trò sẽ thấy học tiếng Việt không khó lắm và tìm thấy niềm vui khi đến trường Việt Ngữ mỗi thứ Bảy. Chờ cho học trò tìm chỗ ngồi xong, cô giáo giới thiệu mình, và tập cho học trò chào hỏi. Nghe các em đồng thanh: “Con chào cô giáo”, lòng cô giáo rộn lên niềm vui, liên tưởng câu châm ngôn “tiên học lễ, hậu học văn” mình được học ngày xưa.
Cô vẫn nhìn thẳng phía trước, không nhìn ngang nhìn ngửa. Anh liếc nhìn cái túi xách giữa hai đùi cô, thấy cộm lên, nghĩ rằng trong ấy có một khẩu súng ngắn, đã lên đạn, lát nữa sẽ kề vào thái dương của anh. Anh nín thở.
Tháng tư 1976, sau một mùa đông ở North Dakota, vừa có bằng lái xe, tôi bỏ việc, bỏ lại một vùng quá bình an, quá tử tế, nhưng cũng quá cô quạnh này, đi thẳng về hướng tây...
“Anh nhớ đến dự lễ trao đẳng cấp Đại Bàng cho thằng con em nha! Để mừng cho em và cháu…” Tôi nhận được điện thoại như vậy từ C., một người bạn trẻ có con trai là hướng đạo sinh thuộc Liên Đoàn Trường Sơn, được nhận danh hiệu Đại Bàng vào ngày 16/08/2025. Đã lâu rồi, kể từ khi hai thằng con ngưng sinh hoạt hướng đạo để đi học đi làm, tôi không có dịp trở về thăm lại liên đoàn. Công việc thì nhiều, thời gian thì ít. Nhưng lần này thì không từ chối được rồi!
Đó là tháng 6-1989, lần đầu đến New York và vào một bảo tàng viện nổi tiếng ở đây, tôi tình cờ, tới chỗ treo một bức tranh trừu tượng khổng lồ, cao khoảng 2 mét, ngang khoảng 6 mét. Tôi kinh ngạc với sự giàu có ở đây, bảo tàng viện này dành riêng ra một căn phòng lớn, đơn giản, sang trọng, chỉ để trưng bày một bức tranh đó...
Tôi bị bắt tại huyện Tân Hiệp chiều ngày hai mươi, giáp Tết. Lý do, mang theo hàng không giấy phép. Thế là tiêu tan hết vốn lẫn lời mà tôi chắt chiu, dành dụm gần cả năm nay. Nhớ đến mẹ và gia đình trong những ngày Tết sắp tới, tôi vừa buồn vừa tức đến bật khóc. Xui rủi, biết trách ai. Tiễn, anh phụ lơ, đã cẩn thận cất dấu hàng cho tôi, vã lại anh cũng quá quen biết với đám công an trạm kiểm soát. Không ngờ chuyến nầy bọn công an tỉnh xuống giải thể đám địa phương, nên tôi bị “hốt ổ” chung cả đám. Đây không phải là lần đầu bị bắt, nhưng lại là lần đầu tiên tôi đi chuyến vốn lớn như vầy. Năm ký bột ngọt, năm ký bột giặt, hơn chục ống thuốc cầm máu và trụ sinh hàng ngoại. Bột ngọt, bột giặt không nói gì, nhưng hai thứ sau hiếm như vàng mà giới “chạy hàng” chúng tôi gọi là “vàng nước”. Nên thay vì đưa về khu tạm giam huyện chờ lập biên bản, hồ sơ xét xử tôi nghe bọn công an thì thầm, bàn tán giải thẳng về khám lớn tỉnh Rạch Giá.
Quỳnh Lâm báo tin sẽ đến Đức trong tuần lễ đầu tháng 10. Nisha vội vàng thu xếp “sự vụ lệnh“ để công du sang Đức. Nisha lo đi chợ sắm sửa đầy mấy tủ lạnh, tủ đá, để mấy cha con sống còn trong thời gian nữ tướng đi xa. Chúng tôi hồi hộp quá, ngày nào cũng thư từ, nhắn nhủ, dặn dò đủ điều tẳn mà, tẳn mẳn. Điện thư qua, về hoa cả mắt. Thư nào chúng tôi cũng nhắc nhở nhau giữ gìn sức khoẻ, vì đứa nào cũng “lão” rồi. Khi gặp nhau, tụi tôi nhất thiết phải đầy đủ tinh thần minh mẫn trong thân thể tráng kiện. Có hôm, đến trưa, chưa nghe tăm tiếng, tôi sốt ruột, xuất khẩu làm thơ... bút tre:
Sống ở đây an toàn và bình an gần như một trăm phần trăm trong hiện tại và tương lai, nhưng không thể bình thản hóa quá khứ. Cuộc chiến khốc liệt giữa thiên thần và ma quỉ luôn ám ảnh ông. Có những điều gì thao thức, âm thầm nghi hoặc, nhoi nhúc sâu thẳm trong ông. Lòng tin vào ông Gót có phần nào lung lay. Đông cảm thấy có lỗi khi nghi ngờ bố, người đã giúp đỡ, bảo vệ ông và Vá. Nhưng nghi ngờ là một thứ gì không thể điều khiển, không thể đổi đi, không thể nhốt lại. Nó vẫn đến, mỗi lần đến nó vạch rõ hơn, nhưng vẫn mù sương như đèn xe quét qua rồi trả lại sương mù.
Trâm gật đầu nhè nhẹ. Đoan nghĩ thật nhanh đến một cảnh diễn ra mỗi đầu tháng trong sân trường. Nơi đó, các sinh viên xúm xít cân gạo và các loại “nhu yếu phẩm”, mang phần của mình về nhà. Rồi thì trong khu phố, cảnh những người dân xếp hàng “mua gạo theo sổ” cũng diễn ra mỗi ngày. Nói “gạo” là nói chung thôi, thật ra trong đó phần “độn” chiếm đa số. Phần “độn” có thể là bo bo, có thể là bột mì, cũng có thể là khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô. Nồi cơm nấu từ gạo và một thứ khác được gọi là nồi “cơm độn.” Mỗi ngày hai bữa cơm độn. Bo bo thì quá cứng vì vỏ ngoài chưa tróc, nấu trước cho mềm rồi cho gạo vào nấu tiếp, trở thành một “bản song ca” chói tai. Khoai lang hay khoai mì xắt lát phơi khô thường bị sượng, ghế vào cơm rất khó ăn. Chỉ có bột mì tương đối dễ ăn hơn, vì người nấu có thể chế biến thành bánh mì, nui hay mì sợi
Mùa đông, tuyết đóng dầy trên mái nhà. Ấy là lúc bà ngoại cũng lo là lũ chim - những con chim của ngoại - sẽ chết cóng. Nhưng bà không biết làm gì để cứu chúng nó. Ngoại đi tới đi lui từ phòng khách qua nhà bếp. Thở dài. Rên rỉ. Rồi lẩm bẩm, “Lỗi tại tôi, lỗi tại tôi mọi đàng.” Bà ngoại tội nghiệp những con chim chết lạnh. Sinh nhật ngoại, chúng tôi chung tiền mua quà. Một con sáo trong chiếc lồng tuyệt đẹp. Bà ngoại cưng nó hơn cưng chị em tôi. Cho nó ăn, ngắm nghía bộ lông đầy màu sắc của nó. Chăm chú lắng nghe tiếng hót véo von lúc chớm nắng bình minh và buổi hoàng hôn nắng nhạt. Rồi một buổi sáng nọ tiếng chim thôi líu lo. Bà ngoại chạy ra phòng khách. Hấp tấp tuột cả đôi guốc mộc. Con chim sáo nằm cứng sát vách lồng. Hai chân duỗi thẳng. Cổ ngoặt sang một bên. Con chim của ngoại đã chết. Bà ngoại buồn thiu cả tuần lễ. Bố mẹ tôi bàn tính mua con chim khác. Bà gạt ngang.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.