Hôm nay,  

Mua bán lạc son

14/03/202407:49:00(Xem: 3256)
Truyện

cho lon ngay xua

Hoạt đạp chiếc xe đạp cà tàng đi lang thang trên khắp những con đường Sài Gòn để mua đồ phế liệu.
    Một ngày thức dậy từ sáng sớm, anh ra quán cà phê lề đường kêu một ly cà phê đen, uống cho tỉnh táo, rồi ghé quán xôi bà cả Cần mua gói xôi hai đồng, vừa dựng xe đạp bên vỉa hè, vừa ăn gói xôi, vừa uống cà phê. Cuộc sống thường ngày, cứ quay đi quẩn lại như cái kim đồng hồ, một ngày đối với Hoạt là như vậy.
    Từ ngày anh ra khỏi trại tập trung đến nay, loay hoay với cuộc kiếm ăn khó khăn giữa một thành phố xô bồ nhộn nhịp, xa hoa phù phiếm này. Mới đầu, vì không vốn liếng, không chỗ ở, lại bị công an theo dõi hàng đêm, Hoạt phải đi lang thang trong các khu nhà có những thùng rác, nơi bỏ rác của cư dân. Danh từ thường gọi những người như Hoạt là dân móc bọc. Chàng đi từ nơi này sang nơi khác, xóm lao động này sang xóm lao động khác, kiếm ăn hàng ngày, cũng may ra tạm đủ.
    Chàng nghĩ đến những ngày dài trong trại tập trung, ăn uống đói khổ, chỉ nuốt bo bo và khoai sắn khô, thế mà cũng qua đi sáu năm trong lao tù cưỡng bách. Bây giờ ra ngoài đời, mọi cơ khổ dù thế nào đi nữa chàng cũng vượt qua được.
    Dần dần, Hoạt để dành được một số tiền nhỏ, anh mua chiếc xe đạp này, ghé chợ Cầu Muối mua một cái giỏ cần xé, mua thêm hai dây cao su dài và chắc, buộc cái giỏ cần xé phía sau ba ga, và anh bắt đầu đổi nghề, đi mua đồ phế liệu. Những đồ cũ, những loại soong, nồi... bằng nhôm, bằng nhựa, hay các loại vật dụng cũ như radio, đồng hồ, quạt máy cũ... rồi đem bán lại cho những người bán chợ trời, cũng kiếm được chút đỉnh hơn hồi đi móc bọc.
    Hoạt bắt đầu dắt chiếc xe đạp chở phía sau giỏ cần xe to đùng ra đường lộ. Anh cố giữ cho chiếc xe thăng bằng rồi ngồi lên yên. Yên vị xong anh mới nhấn bàn đạp. Cặp bàn đạp bằng kim loại lâu ngày không vô dầu nhớt nên kêu lên những tiếng ken két, ken két, như tiếng một con heo bị bỏ đói, đòi chủ cho ăn. Vì chiếc xe cũ nên đạp rất nặng, Hoạt phải nhướn người lên.
    Một tay anh cầm ghi đông, còn tay kia anh cầm cái chuông đồng nhỏ, loại chuông của mấy tay bán cà rem dạo rao bán. Anh đi đường chạy xe đạp thấy mấy đứa trẻ con đi bán cà rem, cầm cái chuông nhỏ rung lên kêu leng keng, thấy rất tiện cho mình, khi đi mua đồ lạc son, ve chai, nên anh nhờ thằng bé bán cà rem, chỉ cho chỗ bán. Nó mách nước, chú lên khu chợ trời đường Trương Minh Giảng, đi dạo vào mấy quày hàng bán đồ linh tinh, chắc có. Hoạt nghe lời, đi đến chợ trời và tìm ra ngay. Nhờ cái chuông nên anh đỡ phải rao to tiếng, rát cổ, khô nước miếng. Trước đây, chưa có cái chuông, anh phải ngoác mồm rao lên, khi đi vào mấy con hẻm sâu: "Ai có răng vàng hư cũ, đồ đồng, đồ sắt, đồ nhôm, đồ phế liệu bán không? Ai có radio, quạt máy, ti vi hư cũ, bán không? Ai có đồng hồ, cà rá, vòng bạc, đồng, thau, bán không?".
    Nhiều khi anh đạp xe dạo khắp hai, ba khu phố, rao khô cả cổ họng, mà không có một người nào kêu bán. Nhưng cũng có khi gặp hên, anh vớ mua lại được cái radio cũ, cái đồng hồ sứt dây nhưng còn chạy tốt, về đem bán lại cho các mối quen ở chợ trời cũng kiếm được chút đỉnh.
    Nếu không thì anh đem các loại lon nhựa, lon nhôm, bán cho các chủ vựa ve chai, cũng kiếm được chút tiền lời ăn cơm hai bữa. Trong các sự chọn lựa của con người, ai cũng muốn cho cuộc đời mình nhích lên thêm chút đỉnh, cơm no áo ấm rồi sẽ tiến lên cơm ngon áo đẹp, đó là lẽ thường tình. Anh đang đứng ở hạng chót bẹt của xã hội, nên anh chỉ mong kiếm ngày hai bữa cơm no, là mừng.
    Sáng nay anh nghĩ sẽ đi từ công viên khu nghĩa trang Mạc Đĩnh Chi, nơi anh tạm sống, xuống khu Thị Nghè mua hàng. Từ ngày ra trại tập trung, anh không có ai là thân nhân nữa, vợ con tứ tán, xiêu lạc nơi đâu anh không biết, nên anh phải tấp về ở Sài Gòn, kệ, đến đâu hay đến đó, anh liều mình leo lên chuyến tàu chợ, vào thành phố, trong ký ức mù mờ anh vẫn tự nghĩ, không biết mình phải tá túc nơi đâu đây?
    Trước đây đi móc bọc hay đi lượm ve chai, anh sống lang thang, đụng đâu ngủ đó, thường thì trên các sạp hàng chợ, như chợ Trương Minh Giảng, chợ Tân Bình hay chợ bà Chiểu. Buổi tối các chủ sạp dọn hàng ra về, thì đám lang thang bụi đời cũng mò về đây. Họ trải những bức chiếu rách ra ngủ.
    Với Hoạt cũng vậy, sau một ngày lao động móc bọc đổ hào quang, anh ghé lên khu gần chợ cá Trần Quốc Toản ngày xưa, ở đây có một phòng vệ sinh công cộng, có cả phòng tắm. Anh trả cho bà giữ cửa phòng vệ sinh công cộng một đồng, rồi vào phòng tắm. Tắm táp cho bay đi bụi đường, xong anh về ngủ trên sạp chợ. Coi như qua một ngày lang thang móc bọc.
    Nhưng sau đó thì đám ngủ chợ bị công an ghé mắt đến, công an dẫn dân phòng đi tuần tra, đuổi hết những kẻ ngủ sạp ra khỏi chợ. Bọn lang thang như Hoạt chạy tứ tán để khỏi phải bị bắt vào trại tệ nạn xã hội, trong đó có đủ thành phần, kể cả những người vô gia cư, được xếp chung như thành phần bất hảo.
    Anh đi tìm mãi chỗ ngủ ban đêm, cũng nghe những bạn móc bọc mách nước, anh về nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi tá túc đi, vì khu này sắp giải tỏa nên công an ít để ý. Anh liền đến.
    Thời gian này khu nghĩa trang này sắp có lệnh giải tỏa nên chuyện cư trú ở đây cũng dễ dãi. Anh nhắm ngay ngôi mộ của một ông tướng miền Nam, bị chết trong một chuyến máy bay thị sát chiến trường, bị súng địch từ dưới bắn lên (hay của Mỹ, hay của các các phe phái tướng lãnh cầm quyền đối lập hạ sát ông, cũng không biết chừng. Thời buổi nhiễu nhương quá mà).
    Chiếc trực thăng bốc cháy thiêu gọn thân xác ông tướng, chỉ còn một mảnh đen sì, bèo nhèo. Cái chết của ông tướng được báo chí nhắc đến nhiều lúc đó. Có những báo đối lập đặt ra vấn đề, ai bắn máy bay chở ông tướng, khi bên dưới là một vùng bình yên? Tuy vậy báo chí ồn ào một thời gian rồi cũng im, mọi chuyện cũng qua đi.
    Xác ông tướng chỉ còn chút xíu, được bỏ trong quan tài bằng loại gỗ đắt giá nhất. Khi chôn ông, có cờ quạt, có hàng lính dàn chào, có dàn kèn đồng đám ma, tây, ta, đủ cả. Và vinh dự thay là có lá cờ vàng phủ trên quan tài nữa chứ, không biết, nếu những chiến hữu đối lập bắn ông, kẻ ra lệnh tiêu diệt ông, trông thấy cảnh này có cảm xúc không? Chỉ thấy có biết bao nhiêu lời ai điếu, phân ưu, của những người tai to mặt lớn trong chính phủ và quân đội. Lời ai điếu thương tiếc đọc lên nghe buồn thảm làm sao! Báo chí hàng loạt ở Sài Gòn đăng tin ông hy sinh, ca ngợi tinh thần quả cảm của ông, đi máy bay thị sát chiến trường, bị lực lượng phòng không địch nã đạn trúng ngay đầu máy bay.
    Những ngôi mộ khu này được xây bằng gạch ốp lát, trông rất sạch sẽ, khang trang. Chung quanh có diện tích rộng nên những kẻ vô gia cư vào đây tá túc nhiều, họ thấy hạnh phúc vì còn hơn ngủ trên những dãy sạp cá chợ Tân Bình, chợ bà Chiểu, chủ sạp cá rửa sạp qua loa, nên còn tanh rình mùi cá.
    Mỗi một kẻ lang thang chiếm một ngôi mộ, cũng có ngôi mộ rộng, hai ba người tá túc.
    Hoạt chiếm được ngôi mộ ông tướng, nên anh rất bằng lòng. Từ ngày có giỏ cần xé, anh đem xe đạp để vào luôn bên mộ và khóa xe lại. Sáng ra, anh dắt xe đi. Nơi đây anh coi như căn nhà của mình, nên lúc nào cũng quét dọn sạch sẽ.
    Từ đường Hai bà Trưng anh đạp xe xuống đường Hồng Thập Tự rồi chạy thẳng ra Thị Nghè. Qua cầu Thị Nghè, anh lắc chuông liên hồi và rẽ vào một con hẻm nhỏ. Anh biết khu phía trong có tổ hợp nhà máy sản xuất giấy, nếu vào đó có các thùng cạc tông thải ra, anh có thể xin hay mua rẻ.
 
*
 
Hà Thị Hiền, người đàn bà ba mươi tuổi, nhà Hiền ở phía bên trái đường Hồng Thập Tự, cũng là khu mặt tiền. Từ ngày người chồng trăng hoa bỏ Hiền và bốn đứa con, ba trai, một gái, đi theo người tình mới, thì Hiền cho người ta thuê một phần mặt bằng trước mặt tiền, để họ bán đồ điện tử. Còn mẹ con nàng lui vào phía sau, kê hai cái giường cho năm mẹ con ngủ.
    Sau khi hợp tác xã giấy thành lập, Hiền nộp đơn xin làm công nhân, vì trình độ học vấn thấp nên nàng chỉ được tuyển làm tạp vụ. Sau dần dần mấy năm, nàng được đưa lên làm tổ trưởng tổ tiếp nhận những thùng giấy mới ở bên nhà máy sản xuất chuyển đến. Hiền và các nhân viên có công việc là sang giấy vào những thùng mới đẹp hơn, rồi dán bao bì, chuyển đến các nơi như chợ, siêu thị bán ra thị trường. Thời kỳ này giấy rất khan hiếm nên hợp tác xã làm ăn có chiều khấm khá.
    Hoạt vừa đi, vừa lắc chuông leng keng, vừa ngoác cổ rao:
    – Ai có bán thùng cạc tông cũ, thùng giấy hư cũ bán, mua với giá cao. Ai có đồ nhôm, đồ sắt phế liệu, bán không?
    Trong lúc đó thì Hiền từ trong văn phòng đi ra. Lúc này, xe đang xuống hàng, toán công nhân đang mở thùng giấy cũ, bỏ giấy vào thùng mới, công việc đang đến giai đoạn kết thúc, thì Hoán cũng vừa đạp xe tới và miệng rao to.
    – Ai có thùng cạc tông bán không?.
    Hiền liền kêu lên:
    – Chú ơi. Tôi có một số thùng đây, chú có mua không?
    Hoạt xuống xe, dựng xe đạp vào bức tường bên hiên ngoài sân, đi tới gần Hiền:
    – Cô bán thùng cạc tông hả cô? Có bao nhiêu tôi mua hết cho.
    Thấy Hoạt cũng còn trẻ, nên Hiền thay đổi cách xưng hô, nàng nói giọng hiền từ:
    – Anh vào đây, thùng cũ vừa tháo ra nhiều lắm, anh mua được bao nhiêu thì mua. Vào trong nhà tôi cho xem.
    Hoạt đi theo Hiền vào nhà kho chứa thùng cạc tông cũ. Cũng rất nhiều. Anh hỏi giá và được Hiền cho một giá rất rẻ, rẻ hơn những nơi khác. Thật ra, số thùng này bán ra cũng như cho, vì chứa trong kho chật quá. Nếu bán được chút tiền thì Hiền cũng mua trà, mua cà phê cho công nhân giải khát lúc họ nghỉ giải lao thôi. Chứ Hiền làm ở đây đã năm năm rồi, tính nàng mau mắn, nhậm lẹ, bộc trực và thương người, cũng như không tham lam, mơ màng đến của công, nên nàng được tin cẩn. Nàng làm việc ở đây, thứ bảy, chủ nhật nghỉ, nàng đi làm công quả ở Tịnh xá Minh Đăng Quang dưới Thủ Đức hay Tịnh Xá Trung Tâm ở Phú Nhuận. Cái tính từ bi, thương người đã ăn sâu vào tâm hồn nàng.
    Khi vào trong nhà kho thì Hoạt mởi lấy cái nón lưởi trai nhàu nát trên đầu ra, Hiền nhận ra khuôn mặt chàng trông thật cứng rắn và cương nghị, dù đời sống lao động khổ sở đã làm sạm đi. Bụi thời gian và sự gian khổ đã làm khuôn mặt chàng, có đôi mắt sáng, có hàm râu quai nón cũng mờ đi. Nhưng nàng nhìn thấy phía trong khuôn mặt ấy, là sự cương nghị vô cùng.
    Hiền hỏi cho có hỏi:
    – Anh ở đâu mà đi mua ve chai đến tận đây vậy?
    Hoạt đáp thành thật, với vẻ mặt không vui:
    – Tôi sống trong nghĩa trang Mạc Đỉnh Chi cô à, ở khu đường Hai Bà Trưng ấy. Không có nhà có cửa thì ở tạm vậy thôi.
    Nghe đến đây, Hiền bỗng dưng cảm thương cho người đàn ông, một mình phải sống cùng người chết trong nghĩa trang này.
    – Vậy hả anh? Ở đó có khó khăn quá không anh?
    – Riết rồi quen đi, riết rồi cũng coi như nhà mình thôi.
    – Thôi được, có chỗ rúc ra rúc vào như vậy thì cũng mừng cho anh, anh há.
    Hoạt trúng mánh được mối thùng cạc tông. Anh mua hết và sắp xếp chở nhiều lần. Vì mỗi thùng có thể tích rộng, cho nên Hoạt phải mở ra rồi làm cho dẹp xuống, bó lại thành bó, mới xếp vào cái cần xé. Công việc qua nhiều công đoạn. Ngày hôm nay anh chở đi chở về cũng khoản 10 lần mới xong. Mỗi lần như vậy, anh chở thẳng tới vựa ve chai quen, họ cân, cộng tổng số rồi trả tiền cho anh, anh kiếm được kha kakhá. Lòng anh mừng khấp khởi.
    Trước khi chia tay ra về, anh nói với Hiền:
    – Hôm nay tôi hên quá, thứ nhất là gặp được cô Hiền, cô đúng thật như tên, là hiền hậu và tốt tánh quá. Thứ hai là tôi được mua với giá rẻ, tôi về bán lại cũng kiếm chút đỉnh khá hơn thường ngày. Cảm ơn cô Hiền nhiều nhe.
    Hiền nhìn anh, nở nụ cười thật tươi:
    – Cảm ơn gì anh, cũng may nhờ anh tôi dọn kho luôn, chứ để đống hàng này choán chỗ quá. Tôi cảm ơn anh mới phải chứ.
    Rồi Hiền hẹn:
    – Một tuần cũng hai ba lần hàng về, anh thỉnh thoảng đi mua ve chai ghé lại đây nhe, có thùng tôi bán cho anh.
    Đáng lẽ câu nói này là của Hoán, vì anh đang cần đi mua hàng dữ lắm. May mà có Hiền nói trước nên anh mở cờ trong bụng.
    Hoạt nói:
    – Vậy thì tốt quá, thỉnh thoảng hai ba ngày tôi ghé qua đây, nhe cô Hiền.
    – Dạ, hai ba ngày anh cứ ghé. Tôi để dành cho anh.
    – Cảm ơn cô Hiền.
    Hoạt đạp xe ra khỏi khu hợp tác xã giấy mà lòng lâng lâng như được uống một ly rượu mạnh. Bao lâu rồi anh chưa được tiếp xúc với một người đàn bà hiền hậu như thế này. Đi móc bọc hoặc đi mua ve chai, anh toàn tiếp xúc với những người đàn bà ba đá, nói ra một tiếng là chữi thề hai ba tiếng... Bây giờ gặp Hiền, anh thấy lòng mình có một cảm giác vui nhe nhẹ trong lòng. Anh đạp miết xe lên tới phòng vệ sinh, phòng tắm công cộng lúc nào không hay.
    Đợi đến ngày thứ ba, Hoạt mới đạp xe đến Hợp Tác Xã Giấy ở Thị Nghè, để mong rằng Hiền có thùng cạt tông bán cho anh không?
    Hai ngày qua, anh đi mua ve chai, đạp xe lên khu Gò Vấp, Hóc Môn, mà lòng anh để đâu đâu. Vào mấy con hẻm trên Gò Vấp, rung chuông leng keng hoài, rao hoài mà không mua được món hàng nào.
    Cũng may, cổ nhân có câu: Cùng tất biến, biến tất thông. Đang lang thang đạp xe rao hàng rả cổ họng, anh chạy trên khu vực Hốc Môn. Hoạt dừng xe đạp lại chỗ ngã ba Tham Lương, định tấp vào một quán trà đá lề đường, kêu ly trà đá uống cho đở khát, thì một người đàn ông, chạy xe đạp đến gần anh, nhìn anh chằm chằm, rồi hỏi to:
    – Anh có phải là Hoạt không? Hoạt hồi đó, nằm chung lán với tôi ở trại Thành ông Năm. Tôi là Phú đây.
    Hoạt ngạc nhiên quá đỗi. Từ ngày ra khỏi trại tập trung, giạt về thành Sài, anh không muốn gặp ai cả, kể cả bà con, bạn bè... Anh cúi gằm mặt xuống, lầm lủi sống, một mình, vì anh nhận thấy rằng, cái xã hội này không còn tin được ai, không ai thương mình nữa cả. Thôi hãy sống cho mình, chỉ mong có một phép lạ nào đó, cho mình gặp lại vợ con thì may quá. Hay có ghe xuồng nào lạc bờ, cho mình quá giang đi khỏi đất nước này, thì thật là vạn phúc. Còn sống ở đây, anh cố nấp vào chỗ xó xỉnh nhất, để kiếm miếng ăn, như con chó đói, chỉ muốn sống trong góc tối, khuất. Thế thôi.
    Nhưng hôm nay, ai mà biết mình vậy ta. Anh nhìn kỷ người đàn ông. Có phải Phú không? Đúng rồi. Phú chứ còn ai vô đây. Đôi mắt ốc nhồi đó, mái tóc thưa và bắt đầu hói... Và giọng nói nữa. Đúng rồi. Phú đã nằm gần mình trong "lò cải tạo" cũng hai năm...
    Rồi sau đó, Phú đổi đi đâu không biết, bây giờ lại gặp ở đây.
    Hoạt nghĩ vậy nên tươi cười, la lên:
    – Phải Phú nằm gần mình ở Thành ông Năm đó không
    Phú xuống xe, dựng xe đạp vào bờ tường của quán trà đá lề đường, chạy đến bắt tay Hoạt, và ôm Hoạt, với nét mặt vui mừng lắm.
    – À, thì đúng Hoạt rồi, mới đầu tôi ngợ ngợ, sao bạn phiêu bạt ở đây vậy?
    Hai người ngồi trên chiếc ghế nhựa thấp lè tè nói chuyện. Hoán kêu một ly trà đá cho Phú, một cho mình.
    Phú tâm sự:
    – Sau khi ở chung với Hoán ở Thành ông Năm, tôi bị đưa lên Phước Long, rồi hai năm sau mới được thả. Về, không có việc làm, ông già có khu vườn ở Tham Lương này, nên biểu tôi lên trông coi. Hiện tôi đang trồng hoa bán, cũng khó khăn lắm. Tôi đi mua phân bón về bón hoa đây. Còn Hoạt ra sao?
    Nhìn thân hình gầy nhom của Hoạt, cùng chiếc xe đạp và cái giỏ cần xé, Phú cũng đoán biết nghề nghiệp của bạn mình bây giờ là gì rồi. Hoán nhấp một ngụm trà đá, rồi nói:
    – Bạn thấy tôi như thế này cũng biết tôi làm nghề gì rồi đó. Tôi đi thu mua ve chai dạo, bán kiếm miếng ăn qua ngày thôi.
    Hồi hai người sống chung lán trong trại, cũng khá thân. Phú hiền lành, chân chất, dù những ngày ở lính trước đó, anh làm một chức vụ khá dữ dằn. Sĩ Quan An Ninh của một Tiểu đoàn Chiến Tranh Chính Trị, đóng ở ven đô. Vì vậy cho nên anh cũng bị ở tù trên năm năm.
    Hoạt không muốn kể lể nhiều về hoàn cảnh của mình, nên anh chỉ nói thế.
    Phú nói:
    – Nhà tôi ở gần đây nè, qua cầu Tham Lương này, ngó bên phải là nhà tôi đó. Tôi đang trồng hoa bán, nhưng thấy cũng không ra gì, chỉ tạm sống qua ngày.
    Rồi Phú rủ Hoạt:
    – Hoạt rảnh không, ghé qua nhà tôi một chút cho biết, rồi khi nào rảnh ghé chơi.
    Hoạt thấy Phú chân tình, nên anh theo Phú về nhà.
    Phú có một khu vườn khá rộng còn bỏ hoang. Anh làm một cái nhà dã chiến, coi như cái chòi để ở tạm. Sau hơn năm năm ở "lò cải tạo" về, Phú mất hết vợ con. Ngọc Dung, cô học trò ở trường nữ trung học Lê Văn Duyệt, cô bé mang kính cận, người con gái một thời Phú đã yêu thương, mê mẩn và sau cùng cưới nàng làm vợ. Nàng đã sinh cho Phú một cậu con trai tên là Trí Nhân. Gia đình rất hạnh phúc và êm ấm thì ngày "trời sụp" tới. Phú đi tù, hơn năm năm sau về, mất luôn vợ con. Ngọc Dung đã lấy người chồng khác, mang Trí Nhân theo.
    Cuộc đời sau bảy lăm là vậy. Hoạt không ngạc nhiên, anh chai lỳ quá rồi với thời cuộc, với thế thái nhân tình. Không có gì mà ầm ỷ cả.
    Phú nói tiếp:
    – Bây giờ tôi về đây sống với người vợ mới là Tuyết. Cô Tuyết có một đời chồng, có một đứa con trai cùng về ở với tôi. Tuyết người miền Nam như tôi, nên tính tình dễ dãi, phóng khoáng.
    Phú dắt Hoạt đi thăm vườn rau xanh và những luống hoa Phú trồng để bán. Hoạt thấy cũng tạm tạm thôi, chứ trồng hoa để bán ở khu vực Hốc Môn này cũng khó lắm, phải bỏ công sức ra nhiều, cùng với sự kinh nghiệm chăm bón đúng ngày, đúng giờ cho hợp thời vụ, lại còn phải cạnh tranh với những chủ vườn trồng hoa ở đây nữa. Những chủ vườn trồng hoa đã có kinh nghiệm lâu đời rồi, có bạn hàng ở các chợ hoa, các chợ đầu mối, cạnh tranh sống được, đâu có phải là dễ.
    Phần Hoạt cũng kể sơ cho Phú biết hoàn cảnh của mình, anh không kể khổ, không than van trách oán điều gì, anh bằng lòng sống với hoàn cảnh của anh. Nghe Hoạt kể, có lẽ Phú cũng thương hoàn cảnh của bạn, nên liền lên tiếng:
    – Hay Hoán về đây ở với tôi và cùng tôi lo vườn hoa, có gì mình chia nhau mà sống.
    Biết lòng tốt của bạn, kể từ ngày còn trong "lò" cải tạo, Phú là người bạn tốt. Anh dùng thời gian nhàn rỗi học châm cứu chữa bịnh cho bạn bè, và đọc kinh Phật. Phú vẫn thường giúp đỡ Hoán trong những lúc đói khổ, thiếu thốn, vì Phú ở Sài Gòn nên thường được gia đình tiếp tế ba tháng một lần. Ân nghĩa đó, Hoán vẫn giữ trong lòng. Nay biết Phú muốn tiếp tục giúp mình, nhưng anh thấy rất ngại. Anh vẫn muốn tự lập, vẫn muốn một mình sống trong xó tối của mình, bởi vì anh một thân một mình, sống đâu cũng vậy thôi.
    Hoạt nói với Phú với niềm xúc động:
    – Tôi cảm ơn Phú rất nhiều, nhưng thôi Phú à. Tôi đã theo nghề ve chai này mấy năm rồi, cũng quen. Bây giờ thay đổi thấy cũng khó. Để lúc nào bí quá sẽ cầu cứu bạn. Nhưng tôi vẫn luôn lên thăm gia đình Phú mà. Có Phú tôi cũng thấy ấm lòng, bớt đi nỗi cô đơn.
    Hoạt ở lại ăn cơm trưa với Phú và Tuyết. Hai người đều ăn chay trường. Hoán rất vui vẻ khi ăn bữa ăn toàn rau, đậu phụ, xì dầu. Có lẽ ăn những thứ này làm lòng người hiền lành lại chăng?
    Thế là anh Hoạt có thêm hai người bạn, Phú và Hiền, cả hai đều ăn chay. Anh thấy mình nhẹ nhàng trong suy nghĩ hơn, sống, làm ăn lương thiện để kiếm miếng ăn, không có gì phải trách móc, xấu hổ vì cuộc sống trên trường đời quá bon chen này.
    Phú dẫn ra cái kho chứa đồ cũ phía sau nhà, cái nhà kho cũng là một cái chòi nữa, nó chứa toàn đồ phế thải của nhà Phú trước đây.
    Phú chỉ tay vào nhà kho, rồi nói:
    – Ở đây toàn là đồ ngày trước gia đình tôi không dùng tới nữa nên thải ra. Hoán tìm thấy có đồ lạc xon nào bán được cứ thu nhặt đem về bán đi. Kho bỏ lâu quá rồi tôi cũng muốn làm sạch. Tôi phụ với nghe. Dọn kho rồi có cái nào anh thấy tốt thì cứ lấy.
    Thế là Phú và anh cùng hì hục dọn kho, cuối cùng thì Hoán cũng thu hoạch đầy một giỏ cần xé.
    Trước khi ra về, Hoạt nói với Phú:
    – Được anh cho từng này, tôi cũng ấm được mấy bữa.
    Nói xong anh lên xe đạp thẳng.

 

– Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.