Hôm nay,  

Lên "Phây"

28/03/202416:36:00(Xem: 3394)
Truyện

Nông_dân_Việt_Nam

Hạo chỉ có cậu Tân là người cậu duy nhất. Mẹ Hạo là chị cả trong gia đình có bốn người con. Mẹ, dì Hiên, cậu Tân và dì út Hậu. Cậu Tân vốn là một nông dân chính hiệu. Hình như cậu học mới qua bậc tiểu học là cậu bỏ cây bút để cầm cái cày, cái cuốc. Đến năm cậu trên bốn mươi, cậu đã có bảy người con, bốn trai, ba gái. Có lẽ cậu thấy cuộc sống làm một người nông dân quá cực hay sao mà cậu nhảy ra tham gia chánh quyền. Cậu được bầu làm xã trưởng.
    Trong thời buổi tao loạn ấy, người tốt việc tốt càng dễ bị ghét. Ghét bên phía địch đã đành, mà phe ta cũng không thương được, vì những chia chác quyền lợi. Địch thì hằm hè bên lưng, mỗi tối phát loa phóng thanh kêu gọi diệt ngụy, diệt ác ôn. Lúc nào trong danh sách diệt, tên cậu cũng đứng đầu sổ. Cho đến một ngày, cậu bị diệt thiệt. Đó là một buổi trưa cậu Tân bị địch phục kích. Cậu bị bắn chết giữa thanh thiên bạch nhật, lồng ngực cậu bị vỡ nát vì đạn AK xuyên qua, máu tuôn xối xả. Cậu tắt thở ngay tại chỗ.
    Cái chết của cậu, làm bảy đứa con của cậu bị hụt hẫng, bị rơi vào một khoảng trống không định hình. Mợ Tân chỉ là một bà nhà quê tay lấm chân bùn, nên cố nén cơn đau để sống, làm ruộng, nuôi con. Có thể nói là lây lất. Không đứa con nào học của cậu hết bậc trung học. Những đứa con gái thì đứa có chồng, đứa không, những đứa con trai cũng làng nhàng làm anh nông dân tiếp nối...
    Rồi cái gì cũng qua. Mấy đứa con trai cũng thành gia thất, cùng nhau sống trong khu vườn của cậu để lại, mỗi đứa làm một cái nhà nhỏ quanh vườn.
    Hạo đi xa quê từ năm mười sáu tuổi, nên những đứa em con cô cậu với anh, cái tình cũng nhạt. Bởi vì sự thân quen, thương yêu, thường thường được nối kết bởi sự gần gũi, sự giao tiếp, sự chia ngọt sẻ bùi. Nhưng Hạo không có những cái đó. Anh sống ở thành phố, rồi đi xa, cũng tự lập, tự lực tự cường. Như hai phương trời cách biệt. Chỉ có thỉnh thoảng mới nhận được tin, đứa này gả con, đứa kia cưới vợ cho con. Khi anh biết hỷ tín, thì ngày cưới đã qua cũng mấy tháng rồi, nên anh cũng không có quà mừng hay lời chúc mừng gì đến các em, các cháu.
    Thế cũng trên bốn mươi năm qua.
    Tự dưng mấy hổm rày, trên "phây" anh xuất hiện một cái tên, Hải N. Nguyễn. Và có một câu hỏi anh, anh Năm đó hả, anh khỏe không? Tự nhiên Hạo thấy bức xúc, suy nghĩ rất lung. Trở đi trở lại những bạn bè thân quen, lớn nhỏ, ai biết mình là anh năm cà? Hạo ra xã hội, sống với đủ mọi nghề với tên khai sinh là Hạo. Bạn bè đều kêu anh là Vũ Thanh Hạo, ai biết được Hạo là con thứ năm trong gia đình. Anh năm. Đúng, đó là tên gọi hồi nhỏ trong gia đình của anh. Chị hai, chị ba, anh tư, anh năm. Chỉ có bà con cô, cậu, dì, mới biết được thôi. Anh lục tìm và suy nghĩ mãi. Cuối cùng anh chịu thua, nên đành hỏi lại trên "phây". Hải N Nguyễn là ai vậy? Trả lời. Em là Hải, con thứ ba của cậu Tân đây. Câu trả lời làm anh chưng hửng. Cảm động.
    Mấy năm nay vi tính lan tràn ở Việt Nam ngày một nhiều, internet, rồi điện thoại thông minh, rồi "phây bút". Cho nên cả quả địa cầu rộng thế mà trở nên gần xịt. Gần thiệt gần, mà xa cũng thiệt xa. Gần, nghĩa là như anh đi chùa ngày mùng một, thấy những cây hoa tường vy bên mép chùa đẹp quá, liền nói với Mây, anh với em cùng chụp cạnh cây tường vy này một đi. Anh nhờ người đàn ông đứng cạnh, anh chụp giùm tui. Người đàn ông cầm lấy smart phone của anh, rồi bấm máy. Cảm ơn. Anh lấy lại phone và coi hình. Đẹp quá. Em thấy đẹp như hồi mình mới yêu nhau không? Để anh gởi liền lên phây, nhe. Thế là anh làm mấy động tác nhẹ nhàng. Tiếng tích của smart phone rung nhẹ. Mấy giây sau, các bạn phây của anh đều nhận được hình anh và Mây đang tay trong tay, bên cây hoa tường vy ở chùa Quan Thế Âm. Điện thoại lại kêu tích, tích, hàng chục cái reply, có cả của chị hai ở quê. Khen. Hình hai em đẹp lắm.
    Đó nghĩa là Gần, muốn nhìn chị hai, anh hai, anh bốn ở quê (hoặc nói chuyện) bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, cũng được. Nhưng Xa. Muốn thấy chị hai bằng xương bằng thịt, muốn cầm tay chị hai, rờ má chị, rờ mặt chị, coi thử da chị có còn rắn chắc không, hay đã nhão, đã lão hóa rồi, thì cũng phải mất thời gian và có tiền. Phải có tiền mua vé máy bay Eva hay China Airline, phải 24 tiếng mới về đến quê, còn đi một chuyến từ SG về quê nữa, cũng mấy giờ bay. Vậy là Xa. Nghĩa là vũ như cẩn, vẫn như cũ, chứ gì nữa.
    Cho nên bây giờ Hạo được phây của Hải N Nguyễn, anh mừng rơn là liên lạc được với đứa em cô cậu ở quê. Và Hạo cũng thấy mừng cho những đứa em của mình, bây giờ cũng được hưởng chút ánh sáng văn minh, là có thể bấm một cái là biết tin tức anh em, bạn bè, xa nửa vòng trái đất. Hạo chúc mừng, những đứa em con cậu, đã có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Nói cho đúng là các em tự mình vươn lên, làm ruộng, chạy xe ôm, nuôi vài con heo nái, đẻ được mấy lứa heo con, nuôi mấy con bò, đẻ được 2 con nghé, đó là vốn liếng có được từ mồ hôi. Đi làm đồng đã có được chiếc honda sản xuất tại Trung quốc giá có mấy triệu, chạy cũng đỡ mỏi chân.
 
*
 
Còn mấy đứa con gái của cậu Tân. Một lần Hạo về quê, một buổi tối anh ra nhà chị hai chơi. Con đường tỉnh lộ chưa tráng nhựa nên còn bụi đỏ mù trời, một con gió lốc xoáy nhỏ cũng làm đám bụi đỏ bốc lên. Bụi bốc lên chỉ người đi đường, hưởng, hít bụi. Buổi tối vùng quê, trời tối như mực, Hạo đứng trước nhà chị hai ngóng ngó người qua lại cho vui và mong tìm lại cảnh thanh bình cách đây năm mươi năm, anh đã hưởng. Bỗng anh thấy đằng xa bóng một người lầm lũi đi lại. Người đàn bà đi trong bóng đêm, gánh một gánh rau, dáng khập khiễng, khổ nhọc. Khi dừng lại trước nhà chị hai, người đàn bà bỏ gánh xuống khỏi vai, nhìn Hạo trân trân, rồi bật lên tiếng nói:
    - Ỏa. Anh năm, anh về hồi nào đó?
    Hạo ngạc nhiên khi thấy người lạ, không biết là ai mà gọi tên mình. Hạo hỏi lại:
    - Chị là ai đó?
    - Em là hai Thao đây.
    Hạo bật thốt lên:
    - Ô! hai Thao.
    Người đàn bà gầy gò, lại ôm lấy Hạo. Hạo ôm lại, chợt thấy Thao ốm quá! Thao đúng là nạn nhân của cuộc chiến vừa qua. Lớn lên, trên hai mươi tuổi, Thao lấy chồng, một thanh niên cùng quê. Thời loạn lạc thanh niên nào ở yên được, nên chồng Thao vào nghĩa quân. Và nghĩa quân là lính, nên phải đi kích, đi rùng địch ban đêm. Đến một lúc, chồng Thao bị trúng đạn, chết. Thao làm góa phụ hồi mới hăm lăm tuổi.
    Vừa nhà quê, vừa không đẹp, vừa lo kiếm miếng ăn đến đứt hơi, nên Thao không có ai để ý tới nữa. Nay đã trên năm mươi năm qua. Thao leo lên đến hàng bảy, khô queo, khắc khổ như một cây sậy trụi lá. Còn hai đứa em Thao, ai cũng khổ như vậy.
    Hạo biết vậy, nhưng anh cũng không giúp được gì nhiều cho những người em cô cậu. Anh đã qua những bầm giập cuộc đời, và chỉ làm một assembly trong giây chuyền sản xuất, lương ba cọc ba đồng. Dành tiền về quê thăm chị, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà đã là hụt hơi. Mấy trăm ngàn đồng Việt Nam anh biếu cho mấy em, cũng chỉ là hột muối bỏ biển. Nhưng anh lại an tâm là các em mình đã sống một cuộc sống lương thiện, trong một xã hội xao xác như thế. Chung quanh toàn hầm hố bom mìn theo nghĩa bóng. Đó là vật chất, xa hoa phù phiếm, đã tràn làm vào tận cùng ngõ ngách. Nói không phải chữi chứ từ trên xuống dưới, các cấp chính quyền, công an, đều đi thụt lùi. Câu nói đúng là xã hội đó, tiếng phát ra là "đầu tiên?" tức "tiền đâu?" Anh không thể khẳng định được tính cách lương thiện của mấy đứa em, nếu tụi nó được làm một chức vụ gì đó có "ăn", thì tụi nó có giữ được tính liêm khiết không? Một xã hội "ăn" từ trên xuống dưới, mấy đứa em làm nông nên không có chỗ "ăn". Nhưng dù gì, giữ được sự trong sạch của mình cũng là điều tốt.
 
*
 
Cái "phây" cũng chiếm chỗ trong Hạo nhiều thời gian. Hình như anh loay hoay với nó suốt ngày. Qua “phây” anh cũng biết tính cách của từng người kết bạn với anh...Người thì thích đăng thơ mình lên “phây”, coi như đó là niềm vui, người thì thích đưa hình, khoe con, khoe vợ. Con gái thì bẹo hình bẹo dạng khoe vú khoe mông. Có đứa con gái kêu gọi phe đàn ông mua viên "cương cứng lâu" cùng với tấm hình tạo dáng rất sexy. Nghĩa là "phây" đúng nơi môi trường oanh kích tự do, từ bom thường đến bom bầy B.52, như hồi chiến tranh, Mỹ đã bỏ bom, rải thảm, xuống ở làng quê, rừng núi ta.
    Cũng nhờ trên "phây" mà Hạo thấy được ngôi nhà lầu ba tầng của người bạn ở thành phố Đ. Nó làm công chức mà sao giàu dữ vậy không biết. Ai cũng trầm trồ, khen ngợi vì Triết tài giỏi, ngoại giao rộng rãi và giữ chức vụ cao. Một lần Triết khoe. Tau sắp hạ cánh rồi mi. Hạ cánh an toàn. Tau sáu mươi với ba cái nhà, hai cái ngoài bãi biển cho thuê và một cái để ở. Như vậy cũng được, mi há. Rồi Triết nói thêm, có lẽ tau nhờ hồng phước của ông bà phù hộ. Ba mẹ tau một đời hiền như cục đất, thấy tau nghèo nên giúp tau vào chỗ ngon, nhờ vậy mà tau mới lên đời. Ký chữ ký kiếm vài chục ngàn đô dễ như chơi. Triết cười rè rè trong ống nghe, có vẻ mản nguyện. Hạo nói, chúc mừng mi nhe. Nhưng anh lại tự hỏi, sao Triết giàu dữ vậy cà? Đúng rồi. Chắc là nó thuộc dạng quan tham, chứ lương tháng của nó, nếu cao lắm cũng khoảng mười triệu, hai mươi triệu là cùng, thì ba cái nhà đó giá cũng cả trăm tỉ, lấy tiền đâu ra. Chắc là không phải do cần cù, đi chạy xe ôm hoặc đi bán chổi đót như một quan chức đã nói. Chỉ có tham nhũng, mà tiền tham nhũng là tiền ăn cắp, đúng là ăn cắp của dân, có gì mà khoe. Và cha mẹ nó ở dưới suối vàng chắc cũng không đồng tình phù hộ nó làm giàu một cách bất chính như vậy.
    Lại một thằng bạn nữa, "sô" hình trên phây một căn nhà lớn, căn biệt thự vùng quê. Căn nhà đẹp thiệt, nhà quê mà có nhà hai, ba tỉ đồng là ngon. Thằng bạn nói, nhờ đứa con tau khôn, giỏi, nên nay nó giàu "cực kỳ". Đây chỉ căn nhà nhỏ thôi, nó làm cho vợ chồng tau ở, chứ ở thành phố, nhà nó mới thật sự "khủng", "cực kỳ hoành tráng" đó mày. Hạo cũng lại viết trên comment, chúc mừng mi có nhà biệt thự, giàu sụ rồi nghe.
    Rồi anh nghĩ đến những đứa con anh ở bên Mỹ này, tốt nghiệp đại học, có đứa là dược sĩ, nha sĩ, mà vợ chồng chúng nó phải làm quần quật suốt năm, suốt tháng. Cũng khoảng mấy năm như vậy, vợ chồng tụi nó mới có tiền down, mua được căn nhà, nghĩa là chỉ trả được khoảng 1/3, còn lại phải cày suốt mươi năm nữa.
    Nhưng Hạo lại thấy tâm bình an.

 

– Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
Chiếc đồng hồ treo trên vách gõ nhịp nhàng hai tiếng thảnh thót giữa đêm khuya tĩnh mịch. Từ đàng xa, vài con chó trong xóm vắng gầm gừ sủa ma nghe thấy lành lạnh người. Tiếng gió đưa xào xạc mấy hàng dừa bụi chuối bên hè cộng thêm giọng ểnh ương oàng oạc tạo thành khúc nhạc êm ái đặc biệt hắt hiu của đồng quê miền Nam. Mùi hương hoa bưởi hoa cau cũng nương theo làn gió đêm len lén vào nhà nghe thoang thoảng nhẹ nhàng. Cho tới giờ này mà Phi vẫn chưa ngủ được, nó cứ nằm lăn qua trở lại với nỗi buồn nhức thịt nhức da, đau buốt tâm can vì sáng mai này nó phải chia tay với con Hồng Thắm, người chị láng giềng lớn hơn nó hai tuổi và cũng là người mà nó thân thiết nhất xóm, còn hơn cả con Mai em gái của nó nữa . Mà nói nào ngay thì Hồng Thắm có đi xa xôi cách trở gì cho cam, chị chỉ qua Mỹ Tho học mà từ nhà tụi nó ở ngay chợ Ngã Tư An Khánh-Bình Đại (Bến Tre) qua có cái Bắc Rạch Miễu là đã tới nơi rồi.
An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.
Thắp nhang tụng thời kinh công phu buổi sáng, tôi mỉm cười đón tia nắng mai đầu Xuân đang lạnh tràn lên chiếc áo tràng và thành tâm cầu nguyện “âm siêu dương thái, dịch bệnh tiêu trừ” cho đệ tử và chúng sanh không phân biệt. Tiếng chuông hồi hướng đưa tôi vào ngôi chùa Tự Tại để được sống thêm một giờ, một ngày hay bao lâu nữa cũng được trong thanh tịnh và an vui.
Để tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum . Bà Elizabeth Becker trong quyển sách "Khi chiến tranh đã chấm dứt , 1986" dẫn chứng lời của vị Đặc Ủy Tối cao Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc: 250.000 thuyền nhân chết trên biển cả; 929.600 người được tỵ nạn. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng.
Biển mùa hạ xanh biếc, màu xanh tưởng chừng như thông suốt từ đáy biển lên tận bầu trời, cái màu xanh mát mắt lạ thường, chỉ nhìn thôi đủ thấy khoan khoái, bao nhiêu bực dọc và phiền não như tan trong làn gió. Hàng ngàn người đang vùng vẫy trong làn nước xanh mát ấy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.