Hôm nay,  

Lên "Phây"

28/03/202416:36:00(Xem: 3381)
Truyện

Nông_dân_Việt_Nam

Hạo chỉ có cậu Tân là người cậu duy nhất. Mẹ Hạo là chị cả trong gia đình có bốn người con. Mẹ, dì Hiên, cậu Tân và dì út Hậu. Cậu Tân vốn là một nông dân chính hiệu. Hình như cậu học mới qua bậc tiểu học là cậu bỏ cây bút để cầm cái cày, cái cuốc. Đến năm cậu trên bốn mươi, cậu đã có bảy người con, bốn trai, ba gái. Có lẽ cậu thấy cuộc sống làm một người nông dân quá cực hay sao mà cậu nhảy ra tham gia chánh quyền. Cậu được bầu làm xã trưởng.
    Trong thời buổi tao loạn ấy, người tốt việc tốt càng dễ bị ghét. Ghét bên phía địch đã đành, mà phe ta cũng không thương được, vì những chia chác quyền lợi. Địch thì hằm hè bên lưng, mỗi tối phát loa phóng thanh kêu gọi diệt ngụy, diệt ác ôn. Lúc nào trong danh sách diệt, tên cậu cũng đứng đầu sổ. Cho đến một ngày, cậu bị diệt thiệt. Đó là một buổi trưa cậu Tân bị địch phục kích. Cậu bị bắn chết giữa thanh thiên bạch nhật, lồng ngực cậu bị vỡ nát vì đạn AK xuyên qua, máu tuôn xối xả. Cậu tắt thở ngay tại chỗ.
    Cái chết của cậu, làm bảy đứa con của cậu bị hụt hẫng, bị rơi vào một khoảng trống không định hình. Mợ Tân chỉ là một bà nhà quê tay lấm chân bùn, nên cố nén cơn đau để sống, làm ruộng, nuôi con. Có thể nói là lây lất. Không đứa con nào học của cậu hết bậc trung học. Những đứa con gái thì đứa có chồng, đứa không, những đứa con trai cũng làng nhàng làm anh nông dân tiếp nối...
    Rồi cái gì cũng qua. Mấy đứa con trai cũng thành gia thất, cùng nhau sống trong khu vườn của cậu để lại, mỗi đứa làm một cái nhà nhỏ quanh vườn.
    Hạo đi xa quê từ năm mười sáu tuổi, nên những đứa em con cô cậu với anh, cái tình cũng nhạt. Bởi vì sự thân quen, thương yêu, thường thường được nối kết bởi sự gần gũi, sự giao tiếp, sự chia ngọt sẻ bùi. Nhưng Hạo không có những cái đó. Anh sống ở thành phố, rồi đi xa, cũng tự lập, tự lực tự cường. Như hai phương trời cách biệt. Chỉ có thỉnh thoảng mới nhận được tin, đứa này gả con, đứa kia cưới vợ cho con. Khi anh biết hỷ tín, thì ngày cưới đã qua cũng mấy tháng rồi, nên anh cũng không có quà mừng hay lời chúc mừng gì đến các em, các cháu.
    Thế cũng trên bốn mươi năm qua.
    Tự dưng mấy hổm rày, trên "phây" anh xuất hiện một cái tên, Hải N. Nguyễn. Và có một câu hỏi anh, anh Năm đó hả, anh khỏe không? Tự nhiên Hạo thấy bức xúc, suy nghĩ rất lung. Trở đi trở lại những bạn bè thân quen, lớn nhỏ, ai biết mình là anh năm cà? Hạo ra xã hội, sống với đủ mọi nghề với tên khai sinh là Hạo. Bạn bè đều kêu anh là Vũ Thanh Hạo, ai biết được Hạo là con thứ năm trong gia đình. Anh năm. Đúng, đó là tên gọi hồi nhỏ trong gia đình của anh. Chị hai, chị ba, anh tư, anh năm. Chỉ có bà con cô, cậu, dì, mới biết được thôi. Anh lục tìm và suy nghĩ mãi. Cuối cùng anh chịu thua, nên đành hỏi lại trên "phây". Hải N Nguyễn là ai vậy? Trả lời. Em là Hải, con thứ ba của cậu Tân đây. Câu trả lời làm anh chưng hửng. Cảm động.
    Mấy năm nay vi tính lan tràn ở Việt Nam ngày một nhiều, internet, rồi điện thoại thông minh, rồi "phây bút". Cho nên cả quả địa cầu rộng thế mà trở nên gần xịt. Gần thiệt gần, mà xa cũng thiệt xa. Gần, nghĩa là như anh đi chùa ngày mùng một, thấy những cây hoa tường vy bên mép chùa đẹp quá, liền nói với Mây, anh với em cùng chụp cạnh cây tường vy này một đi. Anh nhờ người đàn ông đứng cạnh, anh chụp giùm tui. Người đàn ông cầm lấy smart phone của anh, rồi bấm máy. Cảm ơn. Anh lấy lại phone và coi hình. Đẹp quá. Em thấy đẹp như hồi mình mới yêu nhau không? Để anh gởi liền lên phây, nhe. Thế là anh làm mấy động tác nhẹ nhàng. Tiếng tích của smart phone rung nhẹ. Mấy giây sau, các bạn phây của anh đều nhận được hình anh và Mây đang tay trong tay, bên cây hoa tường vy ở chùa Quan Thế Âm. Điện thoại lại kêu tích, tích, hàng chục cái reply, có cả của chị hai ở quê. Khen. Hình hai em đẹp lắm.
    Đó nghĩa là Gần, muốn nhìn chị hai, anh hai, anh bốn ở quê (hoặc nói chuyện) bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, cũng được. Nhưng Xa. Muốn thấy chị hai bằng xương bằng thịt, muốn cầm tay chị hai, rờ má chị, rờ mặt chị, coi thử da chị có còn rắn chắc không, hay đã nhão, đã lão hóa rồi, thì cũng phải mất thời gian và có tiền. Phải có tiền mua vé máy bay Eva hay China Airline, phải 24 tiếng mới về đến quê, còn đi một chuyến từ SG về quê nữa, cũng mấy giờ bay. Vậy là Xa. Nghĩa là vũ như cẩn, vẫn như cũ, chứ gì nữa.
    Cho nên bây giờ Hạo được phây của Hải N Nguyễn, anh mừng rơn là liên lạc được với đứa em cô cậu ở quê. Và Hạo cũng thấy mừng cho những đứa em của mình, bây giờ cũng được hưởng chút ánh sáng văn minh, là có thể bấm một cái là biết tin tức anh em, bạn bè, xa nửa vòng trái đất. Hạo chúc mừng, những đứa em con cậu, đã có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Nói cho đúng là các em tự mình vươn lên, làm ruộng, chạy xe ôm, nuôi vài con heo nái, đẻ được mấy lứa heo con, nuôi mấy con bò, đẻ được 2 con nghé, đó là vốn liếng có được từ mồ hôi. Đi làm đồng đã có được chiếc honda sản xuất tại Trung quốc giá có mấy triệu, chạy cũng đỡ mỏi chân.
 
*
 
Còn mấy đứa con gái của cậu Tân. Một lần Hạo về quê, một buổi tối anh ra nhà chị hai chơi. Con đường tỉnh lộ chưa tráng nhựa nên còn bụi đỏ mù trời, một con gió lốc xoáy nhỏ cũng làm đám bụi đỏ bốc lên. Bụi bốc lên chỉ người đi đường, hưởng, hít bụi. Buổi tối vùng quê, trời tối như mực, Hạo đứng trước nhà chị hai ngóng ngó người qua lại cho vui và mong tìm lại cảnh thanh bình cách đây năm mươi năm, anh đã hưởng. Bỗng anh thấy đằng xa bóng một người lầm lũi đi lại. Người đàn bà đi trong bóng đêm, gánh một gánh rau, dáng khập khiễng, khổ nhọc. Khi dừng lại trước nhà chị hai, người đàn bà bỏ gánh xuống khỏi vai, nhìn Hạo trân trân, rồi bật lên tiếng nói:
    - Ỏa. Anh năm, anh về hồi nào đó?
    Hạo ngạc nhiên khi thấy người lạ, không biết là ai mà gọi tên mình. Hạo hỏi lại:
    - Chị là ai đó?
    - Em là hai Thao đây.
    Hạo bật thốt lên:
    - Ô! hai Thao.
    Người đàn bà gầy gò, lại ôm lấy Hạo. Hạo ôm lại, chợt thấy Thao ốm quá! Thao đúng là nạn nhân của cuộc chiến vừa qua. Lớn lên, trên hai mươi tuổi, Thao lấy chồng, một thanh niên cùng quê. Thời loạn lạc thanh niên nào ở yên được, nên chồng Thao vào nghĩa quân. Và nghĩa quân là lính, nên phải đi kích, đi rùng địch ban đêm. Đến một lúc, chồng Thao bị trúng đạn, chết. Thao làm góa phụ hồi mới hăm lăm tuổi.
    Vừa nhà quê, vừa không đẹp, vừa lo kiếm miếng ăn đến đứt hơi, nên Thao không có ai để ý tới nữa. Nay đã trên năm mươi năm qua. Thao leo lên đến hàng bảy, khô queo, khắc khổ như một cây sậy trụi lá. Còn hai đứa em Thao, ai cũng khổ như vậy.
    Hạo biết vậy, nhưng anh cũng không giúp được gì nhiều cho những người em cô cậu. Anh đã qua những bầm giập cuộc đời, và chỉ làm một assembly trong giây chuyền sản xuất, lương ba cọc ba đồng. Dành tiền về quê thăm chị, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà đã là hụt hơi. Mấy trăm ngàn đồng Việt Nam anh biếu cho mấy em, cũng chỉ là hột muối bỏ biển. Nhưng anh lại an tâm là các em mình đã sống một cuộc sống lương thiện, trong một xã hội xao xác như thế. Chung quanh toàn hầm hố bom mìn theo nghĩa bóng. Đó là vật chất, xa hoa phù phiếm, đã tràn làm vào tận cùng ngõ ngách. Nói không phải chữi chứ từ trên xuống dưới, các cấp chính quyền, công an, đều đi thụt lùi. Câu nói đúng là xã hội đó, tiếng phát ra là "đầu tiên?" tức "tiền đâu?" Anh không thể khẳng định được tính cách lương thiện của mấy đứa em, nếu tụi nó được làm một chức vụ gì đó có "ăn", thì tụi nó có giữ được tính liêm khiết không? Một xã hội "ăn" từ trên xuống dưới, mấy đứa em làm nông nên không có chỗ "ăn". Nhưng dù gì, giữ được sự trong sạch của mình cũng là điều tốt.
 
*
 
Cái "phây" cũng chiếm chỗ trong Hạo nhiều thời gian. Hình như anh loay hoay với nó suốt ngày. Qua “phây” anh cũng biết tính cách của từng người kết bạn với anh...Người thì thích đăng thơ mình lên “phây”, coi như đó là niềm vui, người thì thích đưa hình, khoe con, khoe vợ. Con gái thì bẹo hình bẹo dạng khoe vú khoe mông. Có đứa con gái kêu gọi phe đàn ông mua viên "cương cứng lâu" cùng với tấm hình tạo dáng rất sexy. Nghĩa là "phây" đúng nơi môi trường oanh kích tự do, từ bom thường đến bom bầy B.52, như hồi chiến tranh, Mỹ đã bỏ bom, rải thảm, xuống ở làng quê, rừng núi ta.
    Cũng nhờ trên "phây" mà Hạo thấy được ngôi nhà lầu ba tầng của người bạn ở thành phố Đ. Nó làm công chức mà sao giàu dữ vậy không biết. Ai cũng trầm trồ, khen ngợi vì Triết tài giỏi, ngoại giao rộng rãi và giữ chức vụ cao. Một lần Triết khoe. Tau sắp hạ cánh rồi mi. Hạ cánh an toàn. Tau sáu mươi với ba cái nhà, hai cái ngoài bãi biển cho thuê và một cái để ở. Như vậy cũng được, mi há. Rồi Triết nói thêm, có lẽ tau nhờ hồng phước của ông bà phù hộ. Ba mẹ tau một đời hiền như cục đất, thấy tau nghèo nên giúp tau vào chỗ ngon, nhờ vậy mà tau mới lên đời. Ký chữ ký kiếm vài chục ngàn đô dễ như chơi. Triết cười rè rè trong ống nghe, có vẻ mản nguyện. Hạo nói, chúc mừng mi nhe. Nhưng anh lại tự hỏi, sao Triết giàu dữ vậy cà? Đúng rồi. Chắc là nó thuộc dạng quan tham, chứ lương tháng của nó, nếu cao lắm cũng khoảng mười triệu, hai mươi triệu là cùng, thì ba cái nhà đó giá cũng cả trăm tỉ, lấy tiền đâu ra. Chắc là không phải do cần cù, đi chạy xe ôm hoặc đi bán chổi đót như một quan chức đã nói. Chỉ có tham nhũng, mà tiền tham nhũng là tiền ăn cắp, đúng là ăn cắp của dân, có gì mà khoe. Và cha mẹ nó ở dưới suối vàng chắc cũng không đồng tình phù hộ nó làm giàu một cách bất chính như vậy.
    Lại một thằng bạn nữa, "sô" hình trên phây một căn nhà lớn, căn biệt thự vùng quê. Căn nhà đẹp thiệt, nhà quê mà có nhà hai, ba tỉ đồng là ngon. Thằng bạn nói, nhờ đứa con tau khôn, giỏi, nên nay nó giàu "cực kỳ". Đây chỉ căn nhà nhỏ thôi, nó làm cho vợ chồng tau ở, chứ ở thành phố, nhà nó mới thật sự "khủng", "cực kỳ hoành tráng" đó mày. Hạo cũng lại viết trên comment, chúc mừng mi có nhà biệt thự, giàu sụ rồi nghe.
    Rồi anh nghĩ đến những đứa con anh ở bên Mỹ này, tốt nghiệp đại học, có đứa là dược sĩ, nha sĩ, mà vợ chồng chúng nó phải làm quần quật suốt năm, suốt tháng. Cũng khoảng mấy năm như vậy, vợ chồng tụi nó mới có tiền down, mua được căn nhà, nghĩa là chỉ trả được khoảng 1/3, còn lại phải cày suốt mươi năm nữa.
    Nhưng Hạo lại thấy tâm bình an.

 

– Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 2/12/1922 (khai sinh ghi 5/5/1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sớm mồ côi mẹ. Thuở nhở Võ Hồng ng học trường làng, trường phủ Tuy An, trường tỉnh Sông Cầu, rồi trường Collège Quy Nhơn. Năm 1939 khi đang học Đệ Tam, ông cùng bạn bè viết bích báo và ông chọn một trong số những truyện đó gửi cho báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy là tờ báo có nhiều độc giả nhất lúc đó tại Hà Nội.
Bầu trời cuối thu xanh thăm thẳm, cái màu xanh tưởng chừng như bầu trời thông đến tận cùng thế giới. Từng đám mây trắng bồng bềnh, lững lờ trôi, chúng thong dong tự bao đời đời nay giữa trời đất bao la, mặc cho lòng người khúc mắc, mặc cho thế sự điên đảo…
Vô cùng thương tiếc Trung Tá Phi Công Nguyễn Văn Triều
Anh bước vội vào trong toa xe điện. Một chút ăn năn vì anh về muộn. Anh lỡ quên, hôm nay ba mươi Tết! Anh tìm một chỗ ngồi kín đáo và cố thu người sao cho ấm. Anh vụt nhớ, bên nhà giờ này là mồng một Tết. Anh nhớ câu thơ ai viết:“ Đêm xuống bên ni, Ngày lên bên nớ”. Mắt anh đau đáu nhìn ra ngoài trời. Chicago tràn ngập tuyết.
Tuyết! Đấy là cái ám ảnh dai dẳng của tôi trong một thời gian rất dài. Nước tôi không có tuyết, và lẽ dĩ nhiên cũng không có nhiều món đặc trưng khác của Tây, của Tàu, của Châu Phi chẳng hạn, thế nhưng ước mơ của tôi được thấy tuyết tận mắt là tha thiết hơn cả.
Chúng tôi đinh ninh rằng chúng tôi là những người hồi cư sớm nhất, nhưng không phải. Về đến địa hạt Dương Xuân Thượng, chúng tôi biết rằng đã có nhiều gia đình về trước chúng tôi đến cả nửa tháng. Trên con đường núi đưa về chùa, cỏ mọc che cả lối đi. Chú Tâm Mãn đẫn đầu đoàn người hồi cư, có vẻ nóng nảy hơn hơn ai hết.
Nếu một ngày có hai mươi bốn giờ thì trong cơ thể em cũng nhốt đủ hai mươi bốn cái xương sườn. Một ngày kia, có thể gọi là giờ thứ hai mươi lăm, em gặp phải tai nạn làm gãy mất một cái xương sườn. Vào bệnh viện, chụp quang tuyến X và người ta ra tay giải phẫu, thò tay vào chỗ hóc hiểm để bắt tạm cho em một con vít bằng kim loại, hy vọng đôi ba tháng sau em thôi ca cẩm hát hò bản nhạc “chuyện một chiếc cầu đã gãy”.
Thằng bạn kể, khi nó vào thăm Má nó đang ở nursing home, má hỏi: "Mày vừa từ địa ngục về thăm tao đó hả?" Nó vừa dứt tiếng thì trời nổi gió gào, và tối om, và tôi với tên bạn lạc nhau.
Chiều nay, một buổi chiều cuối năm, tôi bắc ghế ra ngồi ngoài hiên, và tuy đây là một ngõ hẻm khi ngẩng lên tôi vẫn thấy được một vài vì sao lấp lánh. - “Những vì sao cuối năm!” – tôi nghĩ vậy. Đồng thời tôi nhận thấy có sự hiện diện của chòm sao thất tinh quen thuộc.
Đang đọc bản tin trên Yahoo News về việc Hoa Kỳ gửi quân tăng cường cho chiến trường Trung Đông, đến đoạn: “…At Fort Bragg, some 3,500 soldiers in the Army’s 82nd Airborne Division were ordered to the Middle East in one of the largest rapid deployments in decades…” bà Phượng thở dài, nhìn chăm chăm vào tấm ảnh của đoàn quân đang di chuyển đến phi cơ quân sự để bị đưa sang Trung Đông.
Có lẽ trong mỗi người Việt chúng ta, ký ức thời thơ ấu thường là những bức tranh sống động nhiều màu sắc, nhất là trong các ngày Tết. Nhắc đến thủa bé, nỗi nhớ trong tôi bỗng trở nên dịu dàng. Hình ảnh ngày nào tuy không rõ nét, nhưng tôi biết ấy là những kỷ niệm đẹp.
Tôi đến thăm anh vào một buổi chiều cuối năm, trong lúc anh ngồi đối diên với tác phẩm phù điêu“Măt Trời Tự Do”-một công trình anh hoàn thành một năm sau khi anh và gia đình đến Mỹ theo diên H.O. Sau khi mời tôi uống với anh một chén trà ấm, anh kể cho tôi nghe “môt góc đời” của anh: - Tôi là lính trận.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.