Hôm nay,  

Lên "Phây"

28/03/202416:36:00(Xem: 3365)
Truyện

Nông_dân_Việt_Nam

Hạo chỉ có cậu Tân là người cậu duy nhất. Mẹ Hạo là chị cả trong gia đình có bốn người con. Mẹ, dì Hiên, cậu Tân và dì út Hậu. Cậu Tân vốn là một nông dân chính hiệu. Hình như cậu học mới qua bậc tiểu học là cậu bỏ cây bút để cầm cái cày, cái cuốc. Đến năm cậu trên bốn mươi, cậu đã có bảy người con, bốn trai, ba gái. Có lẽ cậu thấy cuộc sống làm một người nông dân quá cực hay sao mà cậu nhảy ra tham gia chánh quyền. Cậu được bầu làm xã trưởng.
    Trong thời buổi tao loạn ấy, người tốt việc tốt càng dễ bị ghét. Ghét bên phía địch đã đành, mà phe ta cũng không thương được, vì những chia chác quyền lợi. Địch thì hằm hè bên lưng, mỗi tối phát loa phóng thanh kêu gọi diệt ngụy, diệt ác ôn. Lúc nào trong danh sách diệt, tên cậu cũng đứng đầu sổ. Cho đến một ngày, cậu bị diệt thiệt. Đó là một buổi trưa cậu Tân bị địch phục kích. Cậu bị bắn chết giữa thanh thiên bạch nhật, lồng ngực cậu bị vỡ nát vì đạn AK xuyên qua, máu tuôn xối xả. Cậu tắt thở ngay tại chỗ.
    Cái chết của cậu, làm bảy đứa con của cậu bị hụt hẫng, bị rơi vào một khoảng trống không định hình. Mợ Tân chỉ là một bà nhà quê tay lấm chân bùn, nên cố nén cơn đau để sống, làm ruộng, nuôi con. Có thể nói là lây lất. Không đứa con nào học của cậu hết bậc trung học. Những đứa con gái thì đứa có chồng, đứa không, những đứa con trai cũng làng nhàng làm anh nông dân tiếp nối...
    Rồi cái gì cũng qua. Mấy đứa con trai cũng thành gia thất, cùng nhau sống trong khu vườn của cậu để lại, mỗi đứa làm một cái nhà nhỏ quanh vườn.
    Hạo đi xa quê từ năm mười sáu tuổi, nên những đứa em con cô cậu với anh, cái tình cũng nhạt. Bởi vì sự thân quen, thương yêu, thường thường được nối kết bởi sự gần gũi, sự giao tiếp, sự chia ngọt sẻ bùi. Nhưng Hạo không có những cái đó. Anh sống ở thành phố, rồi đi xa, cũng tự lập, tự lực tự cường. Như hai phương trời cách biệt. Chỉ có thỉnh thoảng mới nhận được tin, đứa này gả con, đứa kia cưới vợ cho con. Khi anh biết hỷ tín, thì ngày cưới đã qua cũng mấy tháng rồi, nên anh cũng không có quà mừng hay lời chúc mừng gì đến các em, các cháu.
    Thế cũng trên bốn mươi năm qua.
    Tự dưng mấy hổm rày, trên "phây" anh xuất hiện một cái tên, Hải N. Nguyễn. Và có một câu hỏi anh, anh Năm đó hả, anh khỏe không? Tự nhiên Hạo thấy bức xúc, suy nghĩ rất lung. Trở đi trở lại những bạn bè thân quen, lớn nhỏ, ai biết mình là anh năm cà? Hạo ra xã hội, sống với đủ mọi nghề với tên khai sinh là Hạo. Bạn bè đều kêu anh là Vũ Thanh Hạo, ai biết được Hạo là con thứ năm trong gia đình. Anh năm. Đúng, đó là tên gọi hồi nhỏ trong gia đình của anh. Chị hai, chị ba, anh tư, anh năm. Chỉ có bà con cô, cậu, dì, mới biết được thôi. Anh lục tìm và suy nghĩ mãi. Cuối cùng anh chịu thua, nên đành hỏi lại trên "phây". Hải N Nguyễn là ai vậy? Trả lời. Em là Hải, con thứ ba của cậu Tân đây. Câu trả lời làm anh chưng hửng. Cảm động.
    Mấy năm nay vi tính lan tràn ở Việt Nam ngày một nhiều, internet, rồi điện thoại thông minh, rồi "phây bút". Cho nên cả quả địa cầu rộng thế mà trở nên gần xịt. Gần thiệt gần, mà xa cũng thiệt xa. Gần, nghĩa là như anh đi chùa ngày mùng một, thấy những cây hoa tường vy bên mép chùa đẹp quá, liền nói với Mây, anh với em cùng chụp cạnh cây tường vy này một đi. Anh nhờ người đàn ông đứng cạnh, anh chụp giùm tui. Người đàn ông cầm lấy smart phone của anh, rồi bấm máy. Cảm ơn. Anh lấy lại phone và coi hình. Đẹp quá. Em thấy đẹp như hồi mình mới yêu nhau không? Để anh gởi liền lên phây, nhe. Thế là anh làm mấy động tác nhẹ nhàng. Tiếng tích của smart phone rung nhẹ. Mấy giây sau, các bạn phây của anh đều nhận được hình anh và Mây đang tay trong tay, bên cây hoa tường vy ở chùa Quan Thế Âm. Điện thoại lại kêu tích, tích, hàng chục cái reply, có cả của chị hai ở quê. Khen. Hình hai em đẹp lắm.
    Đó nghĩa là Gần, muốn nhìn chị hai, anh hai, anh bốn ở quê (hoặc nói chuyện) bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu, cũng được. Nhưng Xa. Muốn thấy chị hai bằng xương bằng thịt, muốn cầm tay chị hai, rờ má chị, rờ mặt chị, coi thử da chị có còn rắn chắc không, hay đã nhão, đã lão hóa rồi, thì cũng phải mất thời gian và có tiền. Phải có tiền mua vé máy bay Eva hay China Airline, phải 24 tiếng mới về đến quê, còn đi một chuyến từ SG về quê nữa, cũng mấy giờ bay. Vậy là Xa. Nghĩa là vũ như cẩn, vẫn như cũ, chứ gì nữa.
    Cho nên bây giờ Hạo được phây của Hải N Nguyễn, anh mừng rơn là liên lạc được với đứa em cô cậu ở quê. Và Hạo cũng thấy mừng cho những đứa em của mình, bây giờ cũng được hưởng chút ánh sáng văn minh, là có thể bấm một cái là biết tin tức anh em, bạn bè, xa nửa vòng trái đất. Hạo chúc mừng, những đứa em con cậu, đã có một gia đình êm ấm, hạnh phúc. Nói cho đúng là các em tự mình vươn lên, làm ruộng, chạy xe ôm, nuôi vài con heo nái, đẻ được mấy lứa heo con, nuôi mấy con bò, đẻ được 2 con nghé, đó là vốn liếng có được từ mồ hôi. Đi làm đồng đã có được chiếc honda sản xuất tại Trung quốc giá có mấy triệu, chạy cũng đỡ mỏi chân.
 
*
 
Còn mấy đứa con gái của cậu Tân. Một lần Hạo về quê, một buổi tối anh ra nhà chị hai chơi. Con đường tỉnh lộ chưa tráng nhựa nên còn bụi đỏ mù trời, một con gió lốc xoáy nhỏ cũng làm đám bụi đỏ bốc lên. Bụi bốc lên chỉ người đi đường, hưởng, hít bụi. Buổi tối vùng quê, trời tối như mực, Hạo đứng trước nhà chị hai ngóng ngó người qua lại cho vui và mong tìm lại cảnh thanh bình cách đây năm mươi năm, anh đã hưởng. Bỗng anh thấy đằng xa bóng một người lầm lũi đi lại. Người đàn bà đi trong bóng đêm, gánh một gánh rau, dáng khập khiễng, khổ nhọc. Khi dừng lại trước nhà chị hai, người đàn bà bỏ gánh xuống khỏi vai, nhìn Hạo trân trân, rồi bật lên tiếng nói:
    - Ỏa. Anh năm, anh về hồi nào đó?
    Hạo ngạc nhiên khi thấy người lạ, không biết là ai mà gọi tên mình. Hạo hỏi lại:
    - Chị là ai đó?
    - Em là hai Thao đây.
    Hạo bật thốt lên:
    - Ô! hai Thao.
    Người đàn bà gầy gò, lại ôm lấy Hạo. Hạo ôm lại, chợt thấy Thao ốm quá! Thao đúng là nạn nhân của cuộc chiến vừa qua. Lớn lên, trên hai mươi tuổi, Thao lấy chồng, một thanh niên cùng quê. Thời loạn lạc thanh niên nào ở yên được, nên chồng Thao vào nghĩa quân. Và nghĩa quân là lính, nên phải đi kích, đi rùng địch ban đêm. Đến một lúc, chồng Thao bị trúng đạn, chết. Thao làm góa phụ hồi mới hăm lăm tuổi.
    Vừa nhà quê, vừa không đẹp, vừa lo kiếm miếng ăn đến đứt hơi, nên Thao không có ai để ý tới nữa. Nay đã trên năm mươi năm qua. Thao leo lên đến hàng bảy, khô queo, khắc khổ như một cây sậy trụi lá. Còn hai đứa em Thao, ai cũng khổ như vậy.
    Hạo biết vậy, nhưng anh cũng không giúp được gì nhiều cho những người em cô cậu. Anh đã qua những bầm giập cuộc đời, và chỉ làm một assembly trong giây chuyền sản xuất, lương ba cọc ba đồng. Dành tiền về quê thăm chị, thăm mồ mả cha mẹ, ông bà đã là hụt hơi. Mấy trăm ngàn đồng Việt Nam anh biếu cho mấy em, cũng chỉ là hột muối bỏ biển. Nhưng anh lại an tâm là các em mình đã sống một cuộc sống lương thiện, trong một xã hội xao xác như thế. Chung quanh toàn hầm hố bom mìn theo nghĩa bóng. Đó là vật chất, xa hoa phù phiếm, đã tràn làm vào tận cùng ngõ ngách. Nói không phải chữi chứ từ trên xuống dưới, các cấp chính quyền, công an, đều đi thụt lùi. Câu nói đúng là xã hội đó, tiếng phát ra là "đầu tiên?" tức "tiền đâu?" Anh không thể khẳng định được tính cách lương thiện của mấy đứa em, nếu tụi nó được làm một chức vụ gì đó có "ăn", thì tụi nó có giữ được tính liêm khiết không? Một xã hội "ăn" từ trên xuống dưới, mấy đứa em làm nông nên không có chỗ "ăn". Nhưng dù gì, giữ được sự trong sạch của mình cũng là điều tốt.
 
*
 
Cái "phây" cũng chiếm chỗ trong Hạo nhiều thời gian. Hình như anh loay hoay với nó suốt ngày. Qua “phây” anh cũng biết tính cách của từng người kết bạn với anh...Người thì thích đăng thơ mình lên “phây”, coi như đó là niềm vui, người thì thích đưa hình, khoe con, khoe vợ. Con gái thì bẹo hình bẹo dạng khoe vú khoe mông. Có đứa con gái kêu gọi phe đàn ông mua viên "cương cứng lâu" cùng với tấm hình tạo dáng rất sexy. Nghĩa là "phây" đúng nơi môi trường oanh kích tự do, từ bom thường đến bom bầy B.52, như hồi chiến tranh, Mỹ đã bỏ bom, rải thảm, xuống ở làng quê, rừng núi ta.
    Cũng nhờ trên "phây" mà Hạo thấy được ngôi nhà lầu ba tầng của người bạn ở thành phố Đ. Nó làm công chức mà sao giàu dữ vậy không biết. Ai cũng trầm trồ, khen ngợi vì Triết tài giỏi, ngoại giao rộng rãi và giữ chức vụ cao. Một lần Triết khoe. Tau sắp hạ cánh rồi mi. Hạ cánh an toàn. Tau sáu mươi với ba cái nhà, hai cái ngoài bãi biển cho thuê và một cái để ở. Như vậy cũng được, mi há. Rồi Triết nói thêm, có lẽ tau nhờ hồng phước của ông bà phù hộ. Ba mẹ tau một đời hiền như cục đất, thấy tau nghèo nên giúp tau vào chỗ ngon, nhờ vậy mà tau mới lên đời. Ký chữ ký kiếm vài chục ngàn đô dễ như chơi. Triết cười rè rè trong ống nghe, có vẻ mản nguyện. Hạo nói, chúc mừng mi nhe. Nhưng anh lại tự hỏi, sao Triết giàu dữ vậy cà? Đúng rồi. Chắc là nó thuộc dạng quan tham, chứ lương tháng của nó, nếu cao lắm cũng khoảng mười triệu, hai mươi triệu là cùng, thì ba cái nhà đó giá cũng cả trăm tỉ, lấy tiền đâu ra. Chắc là không phải do cần cù, đi chạy xe ôm hoặc đi bán chổi đót như một quan chức đã nói. Chỉ có tham nhũng, mà tiền tham nhũng là tiền ăn cắp, đúng là ăn cắp của dân, có gì mà khoe. Và cha mẹ nó ở dưới suối vàng chắc cũng không đồng tình phù hộ nó làm giàu một cách bất chính như vậy.
    Lại một thằng bạn nữa, "sô" hình trên phây một căn nhà lớn, căn biệt thự vùng quê. Căn nhà đẹp thiệt, nhà quê mà có nhà hai, ba tỉ đồng là ngon. Thằng bạn nói, nhờ đứa con tau khôn, giỏi, nên nay nó giàu "cực kỳ". Đây chỉ căn nhà nhỏ thôi, nó làm cho vợ chồng tau ở, chứ ở thành phố, nhà nó mới thật sự "khủng", "cực kỳ hoành tráng" đó mày. Hạo cũng lại viết trên comment, chúc mừng mi có nhà biệt thự, giàu sụ rồi nghe.
    Rồi anh nghĩ đến những đứa con anh ở bên Mỹ này, tốt nghiệp đại học, có đứa là dược sĩ, nha sĩ, mà vợ chồng chúng nó phải làm quần quật suốt năm, suốt tháng. Cũng khoảng mấy năm như vậy, vợ chồng tụi nó mới có tiền down, mua được căn nhà, nghĩa là chỉ trả được khoảng 1/3, còn lại phải cày suốt mươi năm nữa.
    Nhưng Hạo lại thấy tâm bình an.

 

– Trần Yên Hòa

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.