Hôm nay,  

Công án tân thời

30/04/202415:50:00(Xem: 3050)
Truyện

chinese-mythology

Ông làm bí thơ, quyền lực trùm một phương, ở triều đình hay ngoài châu quận đều đứng trên vạn người trong thiên hạ. Người ta vẫn bảo ông làm vua một cõi, điều này chẳng phải nói điêu mà thật sự như vậy! Lời bàn tán cũng đến tai ông, ông không nói năng gì nhưng tỏ vẻ hài lòng và mặc nhiên cho là thế.
Ông chẳng phải là nhân viên công quyền mà chỉ là người đứng đầu một bang phái nhưng quyền hành của ông phủ khắp, mọi việc lớn nhỏ đều do ông định đoạt, mọi chức vụ cao thấp do ông đặt để. Thiên hạ gọi ông là ông trùm,không một ai dám trái ý, thuộc hạ và bộ sậu luôn đoán ý buồn vui của ông mà hành xử.
    Xưa nay mọi người vốn là kịch sĩ, trong công quyền ai ai cũng nói giả, cười giả, sống giả… giờ thì càng phải nhập vai hơn nữa. Kẻ nào dại mồm ngoác miệng ra nói khác một tí thì coi như kẻ ấy tự chặt chân mình. Ông biết thủ hạ toàn đóng trò, tung hô nịnh bợ nhưng ông khoái, điều ấy như thể những liều thuốc phiện làm cho ông sung sướng đê mê, hễ thiếu là không chịu nổi. Bản thân ông cũng cười giả, nói giả, làm giả, đến nỗi tụi dân giang hồ kháo nhau: “coi vậy chứ hổng phải vậy”. Đứa nào khù khờ ngỡ thật thì chết không kịp ngáp. Nhớ hồi nẳm, có chú kia mới được bổ về địa phương, tuổi trẻ vốn ngựa non háu đá lại ỷ mình có bằng cấp học thật. Chú ngứa mắt trước những hiện tượng xun xoe bợ đỡ của đám công chức đương quyền đối với ông trùm nên chú ấy viết bài đả phá, châm biếm đăng lên mạng xã hội. Chú em ấy đã phạm sai lầm chết người, dám cắt cơn thuốc phiện của ông trùm, lập tức ông trùm hạ lệnh hạch tội, tổ chức đấu tố cả ngoài đời lẫn trên mạng, chụp cho chú em mấy cái nón giấy, mũ cối: “phản động”, “nằm vùng”, “suy thoái”, “diễn biến hòa bình”… Sau khi ông trùm và đàn em phong sát, chú em ấy chỉ còn mỗi đường về nhà giữ con cho vợ đi làm kiếm cơm, cũng may là chú em còn có thế lực đỡ đòn chứ không thì xộ khám rồi!
    Ông trùm và bộ sậu cũng như toàn thể hội viên của bổn bang đều biết rõ cái lý tưởng bấy lâu nay tôn thờ phong thánh ấy chỉ là đồ giả, mượn đó để làm công cụ giữ ghế kiếm ăn. Ai cũng cười cười là vậy, biết tỏng ruột gan của nhau nhưng cứ vờ vịt với nhau, nói trắng phớ ra là cả bọn cùng thờ bụt ăn oản.
Thuở ông trùm mới vào bang hội cũng máu me lắm, từng đánh bọn con nhang đệ tử chạy có cờ. Bọn thầy bà bói toán, đồng cô bóng cậu xính vính vì ông. Bọn ấy phải nằm im thu mình lại suốt bao nhiêu năm trường. Khi thời thế thay đổi, ông trùm lại quay ra chìu chuộng và tin vào bọn ấy còn hơn tin vợ con trong nhà. Ông xuất công quỹ lẫn tiền túi để phục dựng lại dinh cô miếu cậu, phủ ông hoàng, am bà chúa... hết sức vàng son lộng lẫy. Ông trùm chẳng sợ ai, chẳng tin ai, tuy nhiên trong thâm tâm ông vẫn tin có những vị khuất mày khuất mặt đang phù hộ nên ông mới được như thế. Ông cảm cái ơn ấy nên rất thành tâm nhiệt huyết đi hầu đồng, cầu cơ, xin lộc… Để che mắt thiên hạ cũng như tai mắt triều đình, ông tung tin đi du lịch tâm linh, hành hương thánh địa, tất nhiên là ai cũng biết tỏng nhưng chẳng ai dại mồm để rước họa vào thân. Thật ra mà nói thì đám thủ hạ và bộ sậu của ông trùm cũng tin sái cổ vào đám đồng cô bóng cậu như ông trùm mà thôi.
    Một hôm có kẻ trọc đầu xưng sư ở chùa Đại Hồng đến xin diện kiến. Lão trọc ấy vốn chẳng phải ai xa lạ gì với ông trùm, tuy nhiên gần đây ông trùm có lơ là lão vì quá sủng ái bọn đồng cô bóng cậu. Lão trọc ấy thường bày trò để ông trùm mạnh tay đàn áp những vị sư chân chính, cô lập người trung lương. Lão trọc tự xưng mình đã từng tham cứu tất cả các công án của thiền môn nên đã ngộ. Nay y đến cầu kiến ông trùm:
    – Kính thưa ông bí thơ, ông quả là người tài ba và sáng suốt, nhờ sự lãnh đạo của ông mà địa phương ta ngày càng phát triển. Tôi biết ông thông minh và có khí chất phi phàm vì vậy tôi muốn giới thiệu với ông bí thơ một vài công án để giác ngộ. Bản thân tôi đã giác ngộ công án: “Tiếng vỗ của một bàn tay” nên mới nhìn thấy chỉ có ông bí thơ là bậc cao quý, thân nơi chính trường mà tâm nơi Phật cảnh.
    Lão trọc khéo tâng bốc, miệng lưỡi lươn lẹo như thoa mỡ khiến ông trùm nghe thế sướng rêm cả người. Tuy nhiên ông ta làm bộ xua tay:
    – Quý hóa quá, quý hóa quá! Sư thầy đến đây thăm tôi lại còn chỉ bảo cho tôi những việc cao minh. Chúc mừng sư thầy đã giác ngộ, thật đúng là đại sư của triều đình. Sư thầy có thể chỉ cho tôi vài công án thiền gia để tôi thử sức tham cứu xem sao.
    – Công án: “Tiếng vỗ một bàn tay” vốn là công án của các sư Phù Tang chế ra, nó cũng chẳng có gì cao siêu, bọn sư ấy dùng để gạt người nhẹ dạ chứ gạt sao được tôi! Nhiều người mê hoặc nên cứ tham cứu rồi diễn dịch này nọ. Âm thanh của một bàn tay rất rõ ràng trong mắt tôi, nói một cách dễ hiểu là khi ông bí thơ giơ bàn tay lên, lập tức có vô lượng âm thanh phát ra. Nó có thể là âm thanh hoan hỷ để khen thưởng hay phủ dụ. Nó có thể là tiếng cảnh cáo những kẻ dám nói hay đi lệch hướng. Nó cũng là lời đanh thép để tuyên bố cho thiên hạ biết những gì ông trùm và bang hội đã quyết, thậm chí nó là tiếng gươm đao trừng phạt những kẻ “phản bội”, “suy thoái”, “thù địch”… Trên hết, thanh âm của một bàn tay là tiếng nói chân lý và lý tưởng của ông trùm đang tôn thờ và đang chỉ đạo mọi người, là thanh âm của quyết tâm thức để canh giữ hòa bình thế giới, là tiếng lòng chuyên chính, là âm vang của bạc vàng từ những dự án đang chảy vào túi của ông trùm…Khi ông trùm giơ tay lên, dù chỉ là một bàn tay nhưng tiếng vỗ của bàn tay ấy khiến cho thiên hạ phải nghe lệnh, vâng lời, phục mệnh không một kẻ nào dám cưỡng lại…
    Ông trùm nghe lão trọc tán một hồi như thế thì lòng dạ nở từng khúc ruột, tâm trí bay bổng còn hơn phê thuốc, tuy nhiên ông trùm giả vờ khiêm tốn:
    – Ấy chết, sư thầy quá lời, công án nhà thiền tôi nào dám đụng đến, tôi không có cao vọng ngộ công án như thầy vừa chỉ điểm. Tôi chỉ hy sinh dâng hiến đời mình vì dân vì nước nào ngờ lại hợp tông chỉ của công án đến như thế!
    – Ông trùm khiêm tốn quá, công án làm sao bằng được công đức của ông trùm, bọn dân đen ghi tâm khắc cốt ơn ấy. Công án chẳng qua là để ông trùm thư giãn và khai minh trí huệ về sau.
    – Cảm ơn sư thầy, sư thầy quá khen, nhờ sư thầy giới thiệu cho tôi vài công án để tôi thử sức mình, bình sinh tôi cũng yêu thích thiền vì thiền rất là trí tuệ. Tôi cũng muốn tham cứu công án để tâm thanh tịnh hơn.
    – Thật quý hóa, thật là hồng phúc của dân tộc, việc dân việc nước ngập đầu mà ông bí thơ vẫn không quên việc tu thân sửa tánh. Tôi phục ông bí thơ vô cùng, vậy thì lúc rảnh rỗi ông bí thơ hãy tham cứu công án mới này nhé, đó là công án: “Ánh quang minh của màu đỏ”
    – Cảm ơn sư thầy, công án này có vẻ rất lý tưởng.
    – Ông bí thơ quả thật thông minh và sáng suốt, năng lực có thừa, nếu muốn thì ông hãy tham cứu thêm công án thứ hai: “Công lực của một ký tự” như thế vừa tiết kiệm thời gian quý báu, vừa không lãng phí công sức của ông bí thơ, vừa được ngộ nhiều hơn.
    – Sư thầy nói chí phải, tôi sẽ quyết tâm tham cứu hai công án này.
Cuộc hội kiến giữa lão trọc và ông trùm kết thúc trong sự hỉ hả, cả hai đều hết sức hài lòng. Tiễn lão trọc ra tận xe, ông trùm quay vào và ngay lập tức vận công tham cứu liền, kể từ bữa đó ông trùm bế môn để tham thiền. Ở nhà, ông trùm treo bảng “cấm quấy rầy”, ở văn phòng cơ quan, dán biển “miễn tiếp khách”. Ông trùm quyết chí phải tham cứu để ngộ cho bằng được, nếu trước kia vì ngộ lý tưởng mà ông tôn thờ và theo phò một đời, những mong sự nghiệp đời đời sống mãi. Nay ông trùm muốn ngộ công án để liễu sanh thoát tử và từ đó mà ngày ngày chứng kiến sự nghiệp muôn đời của mình. Ông trùm từng nhiều lần tâm sự với bọn đàn em: “Chẳng phải mỗ ham ghế cao hay tham giàu mà tích trữ tài sản; danh vọng vốn phù phù du, của cải vật chất rất vô thường, chẳng qua là vì không nỡ phụ lòng tín nhiệm của chưởng môn nên giữ ghế và vì lòng yêu mến của mọi người mà tạm giữ số của cải phù du ấy”

    Từ hôm nhận hai công án từ lão trọc, ông trùm tuyên thệ phải tham cứu để ngộ, nếu không ngộ ra thì sẽ từ bỏ chức bí thơ, không làm ông trùm nữa! Ngày ngày ông trùm vận dụng hết những phương pháp lý luận vốn bẩm sinh và một phần từ học được ở trường chính trị cao cấp. Ông dùng ý chí sắt đá  mà cả đời đã xài để đấu tranh giai cấp. Ông tập trung cao độ đến mức có thể thần giao cách cảm với lão trọc và bọn đồng cô bóng cậu, tất nhiên là ông trùm cũng cầu khẩn nhờ đến trợ lực của các  vị khuất mày khuất mặt để giúp ông chóng khai ngộ. Ông dùng cái lối tư duy khoa học của giai cấp công nông để làm nền tảng cho việc tham cứu. Ông quyết tâm cảnh tỉnh chính bản thân để khỏi sa vào bẫy diễn biến hay lệch hướng tư tưởng bởi hậu quả phụ của việc tham cứu  tôn giáo gây ra. Ông giữ vững quan điểm tiến bộ và kiên quyết của người công nông vào việc tham cứu công án. Vợ con ở nhà, thủ hạ ở cơ quan, đồng liêu chốn công quyền… tất cả đều biết ông trùm đang tham cứu công án nên không một ai dám quấy rầy, thậm chí bọn họ còn liên tục đi hầu đồng, tiến cúng hậu hĩ cho dinh cậu, miễu cô, phủ ông hoàng… để hy vọng thánh thần giúp ông trùm sớm khai ngộ, phần nữa cũng để thiên hạ thấy mình cũng phục thiện biết thờ thánh thần chứ chẳng phải như lũ vô thần côn đồ vô lại.
    Thấm thoắt bốn mươi chín ngày trôi qua cái vèo như nước qua cầu, như lá rụng hoa rơi...Bốn mươi chín ngày vừa qua như thể một giấc mơ. Ông trùm bừng tỉnh, hoàn toàn khai ngộ. Ông đã thâm nhập vào cốt tủy của hai công án ấy. Ông đã đắc được thiền cơ… Ông trùm thấy người nhẹ nhõm bay bổng, tinh thần lâng lâng sảng khoái, trí óc sáng láng, tư tưởng vững chãi hơn, quan điểm kiên cố hơn và niềm tin bất diệt. Ông trùm nhắn tin cho sư thầy chùa Đại Hồng đến để bàn bạc tổ chức buổi lễ trình pháp và ấn chứng. Hai người bàn thảo cặn kẽ từng chi tiết nhỏ nhặt nhất cho đến những vấn đề lớn có thể ảnh hưởng đến lý tưởng, đạo pháp và sự trường tồn của bổn bang. Ông trùm bảo đảm mọi chi phí do công quỹ chi, còn chùa Đại hồng và lão trọc chịu trách nhiệm trang trí, mời sư khách, thầy pháp…
Đúng lịch trình, ngày bảy tháng bảy vào lúc bảy giờ, bảy phút, bảy giây, tại chùa Đại Hồng. Lão trọc tuyên bố khai mạc buổi lễ ấn chứng. Quang cảnh chùa thật lộng lẫy vàng son như hoàng cung, cờ đạo bay dưới cờ đời, chánh điện hương hoa ngào ngạt, trên bệ thờ tượng Phật đồng ngồi với tượng ông kẹ. Dưới sàn bọn nữ nhân trẻ đẹp mặc áo dài mỏng tang đang lượn lờ múa may. Bọn hồng tăng đắp cà sa lụa vàng viền cạp điều đỏ, ngực đeo đầy huy chương, mề đay, mặt mày bóng lưỡng và hí hửng thấy rõ. Quan khách công quyền vận đồ tây, mặt nghiêm như những ông thần giữ cửa. Đám bộ sậu và mật vụ lăng xăng chạy tới chạy lui lo an ninh cho ông trùm. Trong thâm tâm không ít kẻ cười thầm nhưng không dám nói ra, có hai gã đàn ông trung niên vốn dưới trướng ông trùm nhưng đang nuôi lòng bất dị, hai kẻ ấy xì xầm với nhau: “Bố khỉ, tham cứu công án, tham thiền rách việc!  cạp không chừa thứ gì, ghế cao ngồi mãi không nhích đít, may ra công án cán bộ ông tham cứu công của thì đúng hơn!” . May cho hai gã ấy, kẻ nghe được lời ấy vốn là kẻ không ưa ông trùm, tuy theo ông trùm kiếm ăn nhưng vẫn nuôi lòng chờ chủ khác, kẻ ấy bỏ nhỏ: “Xin hai vị giữ mồm giữ miệng, ông trùm nghe được thì khốn!” hai kẻ ấy giật mình, cảm ơn hắn ta. Kẻ ấy thấy có vẻ đồng hội đồng thuyền, nhân đó xin theo làm đệ cho hai người. Cả ba tiếp tục rỉ tai nhiều bí mật cho nhau trong lúc bọn mật vụ quấn quýt nhặng xị coi trong ngó ngoài, xem xét từng cử chỉ và nét mặt của những người vào ra chùa. Những kẻ được chỉ định phát biểu lo lắng đi gặp trưởng ban tổ chức để nhận lại bài phát biểu vốn phải nộp để duyệt trước. Đám truyền thông và những youtuber, Blogger đệ tử ruột hay nhóm dư luận viên mới được phép tham dự. Bọn ấy xăng xái quay phim, chụp hình, like stream, zoom…nhặng xị cả lên.
    Ông trùm bước lên bục với tất cả sự bệ vệ vốn có, nay trang bị thêm chút thư thả giả tạo cho có vẻ thiền cơ một chút. Mọi người đứng dậy vỗ tay và hoan hô cung nghinh ông trùm như sấm dậy. Ông trùm khẽ nghiêng mình một tí xá xá pho tượng Phật tổ và tượng ông kẹ trên bàn thờ, sau đó quay xuống nhìn một lượt quan khách, hai tay nắm chặt lại giơ lên chào mọi người. Ông trùm bắt đầu những lời thưa hỏi khách sáo, rào trước đón sau và những lời đao to búa lớn như thường lệ, sau cả mươi phút mới đi  vào vấn đề:
    – Mỗ cả đời tôn thờ lý tưởng, cống hiến cho sự nghiệp, dù gì cũng đã một bí thơ, mình có sao thì người ta mới đối đãi mình như thế! Quý vị thử nhìn xem, có bao giờ được như thế này chăng? Mỗ mãn nguyện lắm rồi. Gần đây mỗ được sư thầy chùa Đại Hồng giới thiệu những công án mới, mỗ cố gắng tham cứu để thanh tịnh tâm. Mỗ quyết tâm với khí thế của một chiến sĩ tiên phong, không khoan nhượng, không thỏa hiệp, không lùi bước trước bất cứ thế lực nào. Mỗ đã tham thiền để ngộ nhập vào công án bằng tất cả sức lực quyết thắng, ngoài đời mỗ đã thắng thì mấy công án này cũng phải thắng. Phật tổ, các vị khuất mày khuất mặt đã hỗ trợ mỗ rất nhiều, nhờ thế mà mỗ đã thâm nhập được mật nghĩa sâu xa, khai phá được năng lực huyền bí đầy mầu nhiệm của hai công án: “Ánh quang minh của màu đỏ” và “Công lực của một ký tự”. Việc tham cứu công án khá nặng nề trong khi mỗ đã có tuổi, công việc quốc gia đại sự lu bu, gia đình vợ con đùm đề, đồng liêu trong triều ngoài quận đa đoan… Nhưng cuối cùng mỗ đã vượt qua tất cả. Suốt bốn mươi chín ngày đêm tham cứu và mỗ đã ngộ ra yếu chỉ thiền tông, mật ngôn công án, tâm pháp tổ sư. Màu đỏ là màu mạnh mẽ nhất, rực rỡ nhất, nóng bỏng nhất. Màu đỏ là sự tinh tấn, là nhiệt huyết mang tính chiến đấu, là chiến thắng trăm vạn quân địch và thắng bản thân mình. Phải dùng trái tim đầy máu đỏ để xây dựng thiên đường hạnh phúc chưa từng có trên mặt đất này, màu đỏ chiến thắng sự tối đen ngu si, chậm tiến, lạc hậu, phản động...Còn một ký tự cho dù nhỏ nhất, ngoằn ngoèo nhất, xấu nhất đi nữa nó cũng có công lực của nó nếu nó được viết hay ký bởi một người đã dành hết cuộc đời cho chiến đấu, trung thành với lý tưởng. Một ký tự nó có sức mạnh vạn năng, có thể quyết định sanh tử của một người hay một dân tộc. Một ký tự đơn sơ nhưng nó có thể xây dựng hay hủy diệt một quốc gia, có thể làm thăng hay đọa đối với ai đó...Một ký tự đơn giản bởi nó là một ký tự, đừng nhìn ký tự với cái tâm dính mắc, bản thân ký tự vốn không là gì cả, chẳng qua là mượn nó để biểu tỏ cái mình muốn. Mỗ đã ngộ ra, đã thâm nhập vào tận tầng sâu thẳm nhất của công án, tâm thức mỗ giờ đây như được ánh quang minh của mặt trời rực rỡ soi rọi, tuy nhiên mỗ không biết dùng ngôn từ hay ký tự gì để diễn giải sự giác ngộ này, rất may mắn là có sư thầy Đại Hồng điểm chứng sự khai ngộ của mỗ.
    Ông trùm thao thao bất tuyệt hơn hai giờ đồng hồ, hội trường im phăng phắc, mọi người nghe ông trùm, nhìn ông trùm cứ như thể một thiên sứ hay một vị Bồ Tát nào đó hóa thân để đến độ người. Sư thầy chùa Đại Hồng cũng hoan hỷ sung sướng cao độ, thỉnh thoảng cứ tự xoa đầu, vuốt giải điều đỏ nẹp viền cà sa vàng, tuy giữ lễ tiết oai nghi nhưng thỉnh thoảng quan khách vẫn bắt gặp sư thầy len lén quan sát mọi người. Trong phút chốc ông trùm ngưng một tí để nhấp ngụm nước và lấy lại hơi, chợt dàn loa khọt khẹt phát ra tiếng trẻ con:
    – Ơ, ông trùm đây mà! Tớ vẫn thấy ông ấy trên ti vi hằng đêm ở chương trình thời sự, nãy giờ ông ấy nói gì vậy? hiểu được chết liền!
    Một giọng trẻ con khác:
    – Cậu vốn thông minh mà không hiểu thì bố thằng nào hiểu được!
    Cả hội trường chết trân, bọn mật vụ lập tức tỏa ra truy lùng thì phát hiện hai thằng oắt con con của các vị quan chức tham dự buổi lễ. Hai đứa chui vào khu vực phát thanh ghi hình, chúng nghịch ngợm mà không biết lời của chúng vô tình vang khắp hội trường.
 

– Tiểu Lục Thần Phong

Ất Lăng thành, 0424

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.