Hôm nay,  

Kham Nhẫn

31/08/202412:56:59(Xem: 2733)

meditation cát
Hình từ istockphoto.com

  

 

Thời dịch bệnh covid xẩy ra, có rất nhiều chuyện buồn nhà của anh Tâm và chị Thu cũng xẩy ra một chuyện không vui, đó cũng là một việc buồn lòng cho cả hai vợ chồng và cả hai đứa con anh chị… suýt đi đến xé tan một gia đình hạnh phúc… cái buồn thời cuộc khó né tránh, cũng phần nào do tánh tình con người nóng nảy, khó kiềm chế. Có lúc muốn kiềm chế, kham nhẫn mà tình cảnh và ngôn ngữ thúc ép quá, đưa con người đi sai đường, khó trở về chỗ khởi đầu vốn êm đẹp.

 

Cuối năm 2021, lúc dịch bệnh lên cao độ, đường xá vắng hoe, anh Tâm đi làm về tới nhà, ở một ngoại ô Montreuil chợt tiếng phone điện thoại trong giỏ sách anh reo lên, có vẻ khẩn cấp…

 

Allô, oui…

 

Thì ra viện dưỡng lão gọi điện anh mau mau tới đón mẹ anh về, vì trong viện đã có nhiều người đã nhiễm bệnh, có nhiều người đã dương tính với corona. Viện sắp phải đóng cửa trong nhiều ngày.

 

Tâm lúng túng khoảng 15 phút, rồi quyết định đi đón mẹ về nhà anh. Anh thu xếp, dọn dẹp qua loa cái garage sát bên nhà khách, hút bụi, rồi mang cái ghế bố rộng phủi sạch bụi bám, dọn một chỗ ở tạm cho mẹ. Gọi là garage, chớ cũng rộng hoảng 20m² tường xây kiên cố như bên nhà ở, có điều anh để đồ làm vườn và một số đồ cũ chiếm một nửa diện tích. Vì không còn thời gian, anh đẩy dồn tất cả đồ cũ và cái máy giặt áo quần về một phía… anh quét sơ sơ mấy vách tường cho hết mạng nhện… quên, anh phải lên lầu, kiếm cái gối, chăn, vài cái ly, 1 cái bình thủy sang cho bà cụ…

 

Xong hết, anh chạy ra đường, chạy xe vội đi tới viện dưỡng lão, anh vượt luôn đèn đỏ hai lần, chẳng biết caméra có chụp anh chưa? Anh chép miệng, thây kệ, rồi tính sau… anh cũng không nhớ ra chiều tối rồi, vợ sắp tan sở làm, 2 con gái Thi và Thơ, sắp tan trường, không ai đón, và nhà thì chẳng biết còn gì ăn tối nay?

 

…Khi anh tới cổng viện dưỡng lão, trời đã chạng vạng tối, chỉ còn bà mẹ anh và bà thư ký ngồi co ro trên ghế đá… họ đợi anh, bà thư ký vội báo cho anh hay là anh hãy canh giữ, nuôi bà cụ khoảng một tháng, chờ tình hình dịch bệnh tăng giảm ra sao, rồi thành phố sẽ quyết định và nhà già sẽ liên lạc với anh ngay sau đó.

 

Bà thư ký đi khỏi, anh quay lại ngó mẹ và đau lòng thấy bà cụ co dúm như một mớ giẻ rách khô… anh đỡ mẹ ra xe, và nhỏ nhẹ khuyên trấn an:

 

Mẹ cứ về ở với con ít lâu, coi tình hình ra sao?

 

Lỡ mà vợ con, con Thu và hai con nó Thi và Thơ, chúng nó không bằng lòng thì sao…? Con đã hỏi ý kiến ba mẹ con nó chưa?

 

Con làm gì có thì giờ đâu mà hỏi với thưa, thôi, không sao con cứ đưa mẹ về nhà con, rồi tính sau!

 

Đáng lý ra con phải hỏi ý kiến chúng trước.

 

Lỡ rồi, thôi mình về… ở đây lạnh chết!

 

Mẹ lo quá, lỡ vợ con không bằng lòng cho mẹ về ở chung, rồi vợ chồng con lại lời qua tiếng lại bất hòa!

 

Không, mẹ về, ở bên garage chớ có ở chung nhà đâu.

 

Garage thì cũng là nhà, thông qua lại nhà nó.

 

Sao bất tiện quá, kẹt quá, năm kia mẹ đã bảo để mẹ ở yên bên Việt Nam… thì con cứ khăng khăng đòi mẹ qua Tây… con gây ra toàn là chuyện phiền.

 

Mà phiền thiệt, từ lúc Tâm mang mẹ về garage nhà anh, vợ anh giận hờn không nói với anh một câu nào. Chị phàn nàn anh không bàn với chị một lời… chị cho là anh gia trưởng, quyết đoán một mình… chị còn nói thêm là sống với một người chồng gia trưởng thì cuộc tình chỉ là một nhà tù!

 

Nếu mà tôi hỏi ý em trước, tôi biết chắc chắn là em sẽ từ chối.

 

À anh biết tôi từ chối… thì anh cứ tự ý làm ư?

 

…Cứ thế hai vợ chồng gây lộn, lời qua tiếng lại, gay gắt như muốn đánh lộn nhau.

 

Hai đứa con vừa sợ vừa chán nản bỏ vô phòng riêng và im lặng. Chúng không biết bênh ai bỏ ai.

 

Sau ít ngày, chị Thu thấy chồng dọn áo quần và mang sang garage ở luôn với mẹ, anh mua một cái bếp điện nhỏ và mẹ con nấu ăn riêng bên đó.

 

Chị không biết làm gì hơn, liền thu gom một ít vật dụng tùy thân, dắt hai đứa con gái về nhà mẹ ruột chị, sống ở một thành phố khá xa Montreuil, vì đó cũng là dịp các con nghĩ hè. Trước khi đi, chị còn kịp tỉnh táo, dắt 2 con sang chào má chồng:

 

Má nằm nghỉ, tụi con chào má, tụi con đi khỏi. Vì chồng con không còn quan tâm tới tụi con nữa, con xin phép má con mang 2 cháu đi…

 

Bà mẹ yếu sức và buồn phiền… bà không còn đủ sức khuyên can, bà chỉ đưa tay lên và lặng lẽ nhìn chị Thu và 2 đứa bé khép nhẹ cánh cửa lại…

 

Cánh cửa đời ngày sau đó cũng khép lại với bà mẹ già, bà chưa bị covid, nhưng nỗi sợ hãi, nỗi buồn phiền do các con giằng co, to tiếng làm bà lên cơn đau tim và thở yếu dần, yếu dần rồi mất một mình trong căn nhà xe vắng lạnh.

 

Anh đưa mẹ anh lên chùa xin thầy lo cúng lễ thất tuần sau đám tang tẻ lạnh. Từ nơi này, nghe giảng pháp mà anh lờ mờ rồi mới dần dần hiểu ra mọi sự tan vỡ, do không may mắn mà anh chưa kịp hiểu ra một tinh thần kiên nhẫn. Mà nói theo tiếng trong nhà chùa, gọi là kham nhẫn.

 

……………

 

Vợ con anh đi xa rồi, mẹ anh cũng không còn bên cạnh nữa. Anh một mình, anh có lúc đang sám hối và ôn lại những lời giảng giải rất sâu lắng nhưng rất kiên định của thầy Thích Bổn Điền: đó là anh tập, học tập lấy bài học chế ngự bản thân.

 

Có lúc anh cho là anh hành xử và học tập quá trễ rồi. Nhưng thầy trụ trì đã dậy là học đạo để làm người lúc nào cũng là rất tốt, rất đúng và nhứt là không bao giờ trễ cả.

 

Và thầy đã giảng là: sự chế ngự hay còn gọi là sự hướng dẫn đứng đắn các giác quan, được coi như là cách thức phát triễn những giai đoạn sống cao hơn.


Con người, nói theo một cách đơn giản, sơ khai, cũng như muôn loài muông thú, luôn tìm cách thỏa mãn những tham vọng bản năng. Nhưng bên cạnh những tham muốn đó, nói ra có phần nghịch lý, là họ cũng có đồng thời những khát vọng thanh tịnh, đây là một đặc ân mà chỉ có con người trong số tất cả vạn vật có thể có được mà thôi.

 

Chế ngự bản thân ở trong các tôn giáo, được dậy như là căn bản của đạo đức, của đạo hạnh. Khổng giáo, thiên chúa giáo, bà la môn giáo đều coi như vậy là đúng. Phật giáo, không ngoài ngoại lệ, đề cao sự kham nhẫn, có kham nhẫn mới đi vào đạo và hành đạo.

 

Nói cách khác, phật giáo như là một tôn giáo của sự chế ngự bản thân: chú Lan có xúc động, có yêu Ngọc tới mấy đi nữa cũng không dám bỏ rời chùa Long Giáng đi theo Ngọc! (hồn bướm mơ tiên).

 

Một phật tử tiến hành tốt việc chế ngự bản thân, là một phật tư toàn hảo. Arsitote cũng khuyên theo việc chế ngự bản thân mà sống trong phật giáo, việc kiềm chế bản thân còn có ý nghĩa toàn hảo hơn, là luôn luôn, suốt chặng đường dài, từ lúc bắt đầu sống, tu học và diễn biến chế ngự bản thân luôn luôn liên tục thông qua cả một đời người.

 

Đối tượng chính của chế ngự là tâm. Nêu tâm được kiềm chế tốt thì năm giác quan và các dạng thức của hành vi ứng xử sẽ được kiềm chế tốt là sẳn sàng tuân lệnh, gọi là kham nhẫn.

 

Bà Mirka Kuaster là người Châu Âu, đã tu học và dậy học nhiều năm về thiền vipassana cũng đã nghiệm ra rằng : “con người ta dễ nóng giận rất nhanh. Ta cần kiên nhẫn. Nếu ta thường nóng giận thì mối liên hệ giữa ta và mọi người sẽ không tốt đẹp. Vì vậy, hãy tập kiểm soát tâm, dừng lại nóng giận, nếu ta tập được vậy, kiên nhẫn sẽ đến“ thầy Thích Minh Niệm cũng giảng dậy thiền vipassana với ý nghĩa nhằm ổn định tâm.

 

Khởi đầu là với sáu giác quan, chúng luôn luôn được xem như là sáu cánh cửa (dvara) mà thông qua đó những điều xấu ác xâm nhập vào tâm ta, làm ta chợt nóng giận có thể. Do đó phải canh giữ và coi chừng chúng. Nếu ta chế ngự, làm yên tịnh được những điều thô ác, làm cho tâm ta thanh tịnh là tu tập tốt.

 

Việc kiểm soát các giác quan và ngăn chặn những điều không tốt rong ruổi dần, làm hình thành tập quán tu tập của tôn giáo.

 

Đức phật phân chia hội chứng của các tỳ kheo làm hai phận:

 

Một phần buông lơi: không biết kiểm soát và chế ngự cảm xúc, để tâm thức rối loạn, gọi đó là những hội chứng thiển cận.

 

Một phần khác là họ khéo léo kiểm soát các giác quan và kỷ luật được các cảm xúc, gọi đó là những hội chứng sâu sắc.

 

Điều này chứng tỏ đức phật nhấn mạnh vào việc kiểm soát và điều khiển các giác quan như thế nào.

 

Con người là những động vật, vốn có cảm xúc hay bản năng mạnh và người ta luôn luôn khao khát thỏa mãn chúng tối đa. Do đó nếu con người không được kiềm chế bằng những phương pháp tu tập của các tôn giáo mà tu tâm. Nếu như bỏ mặc cho tâm ý, cảm xúc, bản năng chạy ào ào theo khát vọng tự nhiên mà không hề được kiềm chế, kết quả sẽ là sự suy thoái toàn bộ đạo đức cá nhân và đưa đẩy lẹ tới sự hủy diệt trật tự xã hội.

 

Xã hội sẽ đầy là kẻ cắp, kẻ cướp, kẻ ăn hối lộ, kẻ đầu tư bất chánh thao túng thị trường, kẻ quyền thế áp đảo trấn lột mọi người xung quanh.

 

Như Lai giảng thuyết rõ ràng: tâm con người vốn sáng rỡ, nhưng nó bị ô nhiễm bởi những thứ ô uế xấu ác, những điều tệ hại này luôn tìm cơ hội thâm nhập vào tâm thức bằng cách đi qua, thông qua cánh cửa của 6 căn. Do đó phần việc khôn ngoan của phật tử là phải canh chừng ngăn cản các ác ý nhiễm vô tâm.

 

Chúng ta khép lại cánh cửa giác quan, hoặc là canh chừng giác quan để chống cự những điều xấu, song song việc đó, con người đóng lại  cánh cửa hành vi đó là cách tốt nhứt để kiềm chế bản thân ở cả 3 nơi thân, khẩu, ý.

 

Một tâm thức hoàn toàn được giải thoát mọi loại xấu, ác, được gọi là tâm tự do hoàn toàn vimuttactita TD: một vị tỳ kheo tu tập đúng, biết chế ngự, vị ấy không đánh mất ý thức (hay đánh mất mình) trong bất kỳ tình huống nào mà mình hiện diện: trong khi đi, đứng, nằm, ngồi, ngủ, thức, khi nói, khi cảm nhận, luôn luôn tự nhiên với ý thức kham nhẫn.

 

Ngài Gotama dậy rằng: “tâm rất khó chế ngự, nhưng nó có thể chế ngự được. Và khi nó được chế ngự để thoát khỏi những vọng tưởng đảo điên, thì phước đức tối thượng sẽ đến.“

 

Chúc Thanh
Paris hè nóng 2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chúng tôi cùng cười vui vẻ tìm đường ra khỏi cổng chùa Thiên Trù tức “chùa Ngoài” để rồi tiếp tục cuộc hành trình vào chùa Hương Tích tức “chùa Trong”...
Anh nhớ rõ buổi sáng hôm đó, anh đang chăm chú theo dõi viết bài bài thi Dictée Francaise do thầy Trương Thành Khuê đọc, bỗng nhiên ngửi thấy mùi cứt, cả lớp ngẩng đầu nhìn qua bệ cửa sổ thấy có 4 người tù đẩy một chiếc xe có hai thùng phân của nhà lao Phan Rang, theo sau là môt tên lính mang súng và tay cầm roi da. Cả thầy Khuê và các bạn đều nhìn ra cha của anh, một trong 4 người tù ấy. Anh cúi xuống và tiếp tục viêt bài thi. Cuối giờ thi, nước mắt anh hoen ố bài Dictée. Thấy vậy thầy Khuê lấy tờ giấy chậm (buvard), chậm khô bài thi Dictée. Cha của anh cũng là giáo viên, có thời ông là bạn láng giềng thân thiết của thầy Khuê. Đến lúc ra về, các bạn Long Địch Trạnh, Trần Nhât Tân, Trần Văn Thì... đang đứng đợi anh bên ngoài véranda, các bạn đến an ủi và vổ về khích lệ khuyên anh cứ tiếp tục thi.
Hai đứa cùng lớp từ tiểu học. Nhà Quỳnh Lâm ở gần sân vận động. Nhà tôi ở đường Quang Trung, gần trường Chấn Hưng. Hai đứa đến trường Nữ Tiểu Học từ hai hướng khác nhau. Vậy mà vẫn cứ đi vòng, để cùng đến lớp. Hai đứa vẫn thường tắm chung trước khi rời nhà. Quỳnh Lâm mặc mấy áo đầm kiểu trong báo Thằng Bờm, Thiếu Nhi. Ba tôi bảo thủ, cho tôi diện những kiểu đầm xưa lắc, xưa lơ. Có năm, kiểu áo đầm xoáy, tay cụt rất thịnh hành. Chị Thanh Tâm xin Mạ ra tiệm Ly Ly may cho tôi một áo. Nhưng Ba bắt phải cải biên, tức là phải dài quá gối (đâu còn thuộc họ mini jupe nữa đâu), và tay phải dài che cùi chỏ.
Người con gái ngồi bất động như thế đã từ lâu lắm; dễ chừng có cả tiếng đồng hồ rồi. Trời biếc xanh, lác đác những khóm mây bông gòn trắng nõn, biển xanh thẫm phía trước, sóng dạt dào xô nhau vỗ vào ghềnh đá tung bọt trắng xóa dưới chân. Tất cả như cùng cuốn hút nàng vào cái bao la mịt mùng bí mật. Ở một góc nhìn từ bên sườn dốc đá, thấy nàng nhạt nhòa trong nắng như một phần của núi non đã hóa thạch từ ngàn năm trước. Người con gái, như tượng đá, mong hoài một điều không bao giờ xảy ra; một ước mơ không bao giờ thành sự thực; hay nàng đứng chờ trông một người đã mịt mù bóng chim tăm cá?
Ngày Hiền Phụ hay là Ngày Lễ Cha (Father’s Day) rơi vào ngày Chủ Nhật thứ 3, tháng 6 hàng năm tại Hoa Kỳ, được Tổng Thống Lyndon Johnson chính thức công nhận là ngày lễ quốc gia từ năm 1966, sau đó Tổng Thống Nixon ký thành luật, ban hành năm 1972. Theo lịch sử Hoa Ký, vào năm 1909, bà Sonora Smart Dodd lúc đó 27 tuổi, sau khi nghe diễn thuyết về ngày Lễ Mẹ tại đền Spokane tiểu bang Washington, bà nảy sinh ý muốn có một ngày đặc biệt để tôn vinh người cha, vì cha cũng xứng đáng được tôn vinh như mẹ. Tư tưởng này xuất phát từ lòng can đảm, sự hy sinh và tình thương dành cho các con của cha bà là ông William Smart. Vợ chết ngay khi sinh đứa con thứ 6 vào năm 1898, ông William Smart đã ở vậy, một mình nuôi 6 đứa con ở một nông trại miền Đông tiểu bang Washington Hoa Kỳ.
Tình yêu không phải là thứ ngôn ngữ nói ra, mà là ngôn ngữ để giữ kín! Tôi đã chôn kín hình ảnh đẹp nhất một đời người. Bây giờ người con gái năm xưa đang ở đâu, sống ra sao trong vạn nẽo đường trần hệ lụy. Có còn nhớ cơn mưa bong bóng chiều nào nơi hiên ngôi chùa nhỏ? Có còn tìm thấy những cơn mưa bong bóng bên đời? Hay tất cả đã phôi pha, đã trôi theo những giọt mưa bong bóng một thời đã mất?
Sau khi đội chiếc mũ beret đen lên đầu ông Hậu bước ra ngoài, thấy lòng thoải mái hẳn ra, ở trong nhà này toàn là “luật lệ” ăn cơm đúng giờ, đi ngủ đúng giấc, con dâu “kiểm tra” ông từng tí một “Ủa hôm nay sao ba tắm trễ, tắm vào buổi tối dễ bị cảm lạnh đó ba.” Con trai cũng “để ý” ông từng tình huống: -“Tối qua ba thức khuya quá, 12 giờ đêm con dậy đi tiểu thấy phòng ba còn sáng đèn. Ba nên ngủ sớm dậy sớm tốt cho sức khỏe”. Ông có niềm vui với computer lúc đọc báo xem tin tức, xem you tube mọi đề tài, lúc nghe nhạc, lúc vào group trò chuyện với bạn bè gần xa, ngồi với computer cả ngày cũng chưa chán. Thế mà con cũng… phê phán.
Ờ ờ thì số này đây, nhà này đây, lúc trước kia ông đã lên vài lần mà, ông đâu có lầm, mà nay sao thấy là lạ… hình như chúng đã phá bỏ cây hoa bông giấy phía trước, thay vào đó là một hàng rào thưa trống vắng… đúng là số nhà đó mà. Ông săm săm mạnh bạo đẩy cổng… thì bất chợt hai đứa cháu nội, Hiền và Nghĩa, cũng bật tung cánh cổng chạy ùa ra đón ông, vừa đón ông, vừa như chúng ngăn lối vào, mỗi đứa nắm cứng một bên tay ông, giữ lại, miệng lắp bắp: Nội, nội lên Sài Gòn sau không báo tụi con? - Nội, nội đừng vô nhà, bị… bị má con đi vắng!
Thị trấn ấy vô cùng nhỏ bé. Một con đường chính viền hàng cây phong với vài ba ngã tư đèn xanh đèn đỏ. Từ đó mọc lan ra những con đường nhỏ, quanh co vào những khu xóm thưa người. Vì vậy khu rừng sau nhà là nơi tôi lui tới thường xuyên. Một tấm bảng với hai chữ “Dead End” gắn trên cây cột gỗ chôn ở bìa rừng. Một lối mòn vắt trên cỏ dại, bò quanh co giữa những tàng cây cao và bụi rậm với dây leo chằng chịt. Tôi thường mò mẫm một mình trên lối mòn ấy cho đến khi đám dây leo vắt ngang, chặn mất lối đi và cỏ dại xóa hết lối mòn. Dọc lối mòn quanh co ấy, thỉnh thoảng có một tảng đá nằm trơ trọi giữa cỏ cây rậm rạp, như thể ai đó đặt sẵn chỗ nghỉ chân cho những kẻ rong chơi. Và rải rác đó đây một loài hoa lạ. Loài hoa có bốn cánh mở ra vào ban mai và khép lại khi chiều xuống. Những bông hoa phảng phất mùi quế. Loài hoa lạ lùng dường như chỉ mọc trong cánh rừng ấy
Có lẽ mưa đã đổ xuống thành phố Paris vào lúc ban khuya nên khi tôi choàng tỉnh dậy lúc năm giờ sáng, ra khỏi giường để bước tới cửa sổ vén màn che nhìn ra ngoài thì thấy trời vẫn còn mưa...
Thời gian qua mau trên những trang nhật ký đọc vội dưới ánh sáng hoàng hôn. Những dòng tình cảm của quá khứ sống lại trong từng con chữ...
Đúng vậy, đời này chẳng có con người nào hoàn hảo, mà cũng chẳng có cuộc hôn nhân nào hoàn hảo, ai cũng có những điểm tốt điểm xấu, miễn sao điểm tốt nhiều hơn điểm xấu, thì coi như... hôn nhân thành công. Câu này đã có ai nói chưa nà, nếu chưa, thì coi như tôi là người... phát minh ra, nghen! Vậy là tôi an tâm, kể chuyện tốt của anh xã mình cho bà con nghe chơi, theo đúng như lời dạy của ông bà mình “tốt khoe xấu che”. Dại gì vạch áo cho người xem lưng.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.