Hôm nay,  

Chị tôi

07/09/202408:29:00(Xem: 2311)
Truyện

DTChinh_1
Tranh Đinh Trường Chinh.

Tuy Hòa, nơi tôi sống quãng đời thơ ấu, là một thành phố nhỏ hiền hòa nằm sát bờ biển, giống như nàng “Mỹ Nhân Ngư” phơi tấm thân kiều diễm trên bãi cát trắng tinh. Nàng dựa đầu trên núi Chóp Chài, đôi mắt mơ màng nhìn ra biển Đông, nghe gió thổi vi vu qua những bãi thùy dương dày đặc trên bãi biển Đại Lãnh, đầu đội vương miện hình Tháp. Ai từng đi qua Tuy Hòa, nhìn lên Tháp Nhạn đứng hiên ngang trên đỉnh núi, soi mình bên dòng Đà Giang lững lờ trôi, đều ngậm ngùi cho nền văn minh một thời rất huy hoàng của nước Chiêm Thành. Cả một vương quốc đã mất hẳn dấu tích, chỉ còn lại vài cái tháp đứng trơ gan cùng tuế nguyệt! Xa kia về phía nam là ngọn Thạch Bi Sơn (Núi Đá Bia) cao ngất quanh năm mây phủ, đánh dấu chiến công hiển hách của vua Lê Thánh Tôn một thời đại phá quân Chiêm Thành. Đó cũng là biên giới giữa Đại Việt và Chiêm Thành thời Hậu Lê.
    Tôi là một trong nhóm người Bắc di cư, được may mắn định cư và lớn lên trên vùng đất tự do, ấm cúng Tuy Hòa nơi mà người dân có tiếng là chất phác, đôn hậu và nhiệt tình. Năm 1954, chính quyền cho cất một xóm độ vài chục căn nhà tranh vách đất vây quanh cái giếng nước trên một mảnh đất khá rộng, để đón dân Bắc Kỳ di cư. Tất cả sinh hoạt của trại đều xảy ra ở đó. Từ tắm rửa, giặt quần áo, xách nước về nhà để nấu ăn, chuyện gẫu, trai gái gặp gỡ làm quen. Đó đúng là một tụ điểm hội họp, giống như những sân đập lúa ở một làng quê nào đó, bởi vì chẳng có một thứ giải trí nào khác.
    Trại di cư được tổ chức theo kiểu làng xã thời xưa: có một trưởng trại, vài vị trong ban hội đồng, họp nhau thường xuyên để cải thiện đời sống cư dân. Ngoài ra, hội đồng trại còn lo việc phân phối thực phẩm và làm cái gạch nối giữa dân di cư và chính quyền thành phố. Hồi xưa chưa có điện thoại, nên tôi được chỉ định làm “thằng mõ” để thông báo tới từng gia đình những tin tức từ ban hội đồng trại đưa ra. Mỗi nhà đều có “Sổ Gia Đình”. Chính quyền tùy theo nhân khẩu mà cấp phát nhu yếu phẩm như dầu hôi để nấu ăn và thắp đèn, gạo, đường, đồ hộp, sữa bột, bột mì, bột bắp. Sữa thì pha với nước sôi để uống, ai không quen, Tào Tháo đuổi là chuyện thường. Bột mì và bột bắp chẳng biết làm gì, nấu chè mãi ăn cũng ngán bèn nhồi thành những con thú như bò, gà, heo, rồi chiên lên ăn, cũng ngon ra phết!
    Có cả quần áo nữa, những bộ quần áo rộng thùng thình tuy cũ nhưng còn rất tốt. Bà con tháo ra và sửa lại cho đúng khổ người mình. Sau này còn cấp heo con để nuôi làm giống. Những con heo Mỹ trắng bóc mắt xanh lè trông rất lạ mắt, mau lớn như thổi, to như một con bê, khác hẳn với mấy con heo đen thui, nhỏ xíu của xứ mình.
    Hầu như xóm Bắc Kỳ di cư nhà nào cũng nuôi một vài con heo, heo nái cơ. Thỉnh thoảng có anh chàng nhà quê, dắt theo chú heo nọc nhỏ xíu, đi lang thang ngoài đường, tay cầm chiếc roi thật dài, để điều khiển heo như người ta chăn vịt vậy. Khi heo nái bắt đầu kêu la om xòm và phá phách trong chuồng, cứ gọi anh ta vào là vài tháng sau, chủ trại sẽ có một bầy heo con đẹp đẽ. Anh ta chẳng làm gì đâu, con heo của anh làm thôi. Thấy chú heo nọc nhỏ xíu đứng gần nàng heo nái to kềnh mà tội nghiệp. Mỗi lần như vậy, tôi cũng tò mò đứng xem chú làm gì, Bố lại đuổi đi chỗ khác chơi. Khi chàng heo nọc làm xong phận sự, được chủ nhân cho ăn một nồi cám to nấu với đậu xanh bảo là “để lấy lại sức”. À, thì ra chú làm việc cũng vất vả lắm đấy. Vài năm sau, khi những người di cư đã có thể tự lập, chế độ cấp phát thực phẩm cũng chấm dứt theo.
    Đời sống trong trại di cư khác xa với các trại của vùng kinh tế mới sau này. Đó là một đời sống tạm đầy đủ, êm đềm, tự do và tự tin cho tương lai của gia đình và đất nước. Trẻ con đều được đi học mà không phải trả bất cứ một khoản học phí nào. Tôi có những bạn cùng lớp đạp xe đi học từ những vùng thôn quê xa xôi. Bệnh viện đều miễn phí, rộng rãi và hợp vệ sinh. Xã hội có tôn ti trật tự và lễ nghĩa: kính trên nhường dưới. Tình nghĩa thày trò thắm thiết như cha mẹ và con cái.  Cửa nhà không cần khóa hai ba lớp. Chẳng phải thời Nghiêu Thuấn, nhưng tương đối hạnh phúc yên bình cho tới khi những tai họa từ trên núi đổ xuống: Ám sát, chặn đường, đặt mìn xe đò, xe lửa, pháo kích, súng nổ khắp nơi.
    Chị Linh là con độc nhất của gia đình hàng xóm kế bên nhà tôi. Bố của chị với Bố tôi cùng làm công chức trong tòa hành chánh tỉnh nên rất thân thiết với nhau. Mỗi khi mẹ tôi có nấu món ăn gì đặc biệt lại bảo tôi mang qua biếu nhà chị. Mẹ chị mỗi khi đi xa về đều có quà cáp cho mẹ tôi. Chị Linh lớn hơn tôi 3 tuổi, học trên tôi ba lớp. Chị vừa đẹp vừa học giỏi nên có nhiều chàng dòm ngó. Vì trường trung và tiểu học gần nhau nên chị và tôi thường đi học chung, nhiều đứa bạn tưởng tôi và chị là chị em ruột. Tôi chẳng thanh minh thanh nga gì cả cứ nhận vơ để lên mặt với đám học trò cùng trường. Mấy anh học cùng lớp với chị, hay dúi cho tôi quà cáp, lúc thì cái bánh “bích quy tây”, lúc thì vài cục kẹo “trứng chim” để nhờ tôi đưa thơ cho chị. Tôi chẳng bao giờ đưa, nhưng quà cáp cứ nhận đều đều. Mỗi lần nói với chị chuyện đó, chị lại trừng mắt nhìn tôi: “không được nhận quà nữa! thư cứ vất vào xọt rác cho chị!”. Tôi tảng lờ như không nghe thấy gì, mấy anh ấy có hỏi chỉ nói: “Đưa rồi, chị có đọc không, em không biết.” Mấy bức thư đó chắc gây phiền toái cho chị nhiều lắm.
    Mẹ tôi buôn bán cam. Dì tôi ở Saigon, cứ cách một vài ngày lại gởi hàng ra bằng xe lửa. Tôi chỉ việc ra lãnh mang về, Mẹ phân phối cho bạn hàng ngoài chợ. Đường xe lửa xuyên Việt chạy ngang thành phố. Mỗi khi về tới, tiếng còi tàu “ò e…, ò e…” đánh thức cả thành phố đang ngái ngủ. Tôi vội mướn xe xích lô chạy ra nhà ga để lãnh nhận những cần xé cam nặng trĩu…Bao giờ tôi cũng dấu một vài trái để cho Chị, chị thích lắm. Đó là thứ quà rất xa xỉ thời đó.
    Bố Mẹ tôi có 4 đứa con trai. Khi sanh thằng út, mấy người hàng xóm xấu miệng rỉ tai nhau “5 đứa con gái là Ngũ Long Công Chúa, còn 5 thằng con trai là Ngũ Quỷ”. Bố Mẹ tôi và Bố Mẹ chị Linh đồng ý trao đổi với nhau như trong chuyện giả tưởng thời xa xưa: Thằng út sẽ là con nuôi của nhà chị Linh và chị Linh là con nuôi của Bố Mẹ tôi. Thế là Út và chị Linh có hai cha mẹ, được cả hai chiều chuộng. Bốn anh em tôi trở lại thành “Tứ Quý” như xưa. Cha mẹ chị Linh thương thằng Út ra mặt, ngày nào cũng qua nhà tôi nựng nịu ngắm nghía nó như một báu vật. Đồ ăn đồ uống cung cấp cho nó thôi thì vất đi không hết. Mẹ tôi thường bận buôn bán nên hầu như Mẹ chị Linh chăm sóc Út nhiều hơn, thành ra Út đeo theo Mẹ nuôi cả ngày không rời.
    Hai năm sau khi sanh Út, Mẹ tôi bị bạo bịnh qua đời, từ đó Út ở hẳn bên nhà bố mẹ nuôi. Chị Linh thay Mẹ săn sóc anh em chúng tôi. Đi học về, chị dọn dẹp nhà cửa, nấu ăn, gánh nước từ giếng về đổ đầy mấy thùng phuy. Đó là thùng sắt đựng nhựa đường tráng mặt lộ, mấy thày công chánh sài hết nhựa, bán lại cho dân đựng nước, không bị rỉ sét. Trước khi trời tối, chị bắt tất cả ra giếng tắm rửa sạch sẽ. Tôi nhớ có lần chị đang giặt quần áo, thấy chiếc quần đùi tôi mặc lấm đen bùn đất chị bảo cởi ra cho chị giặt. Tôi còn chần chừ vì mắc cỡ, chẳng lẽ cởi quần tồng ngồng trước mặt chị. Chị la tôi “ Bé bằng quả ớt mà bầy đặt mắc cỡ.” Tôi vội cởi quần đưa cho chị, rồi lấy tay che thằng nhỏ, chị dí tay vào đầu tôi bắt vô nhà mặc quần. Sau này lớn lên một chút tôi thay chị sách nước, giặt dũ quần áo. Chị chỉ làm bếp thôi.
    Chị đậu bằng trung học đệ nhất cấp rồi đi học lớp Y tá điều dưỡng bốn năm. Tôi cũng vừa lên Trung học. Chị tốt nghiệp về làm trong bệnh viện duy nhất của tỉnh.
Bố tôi được đổi về Saigon, ngay khi tôi vừa học xong trung học đệ nhất cấp. Cả nhà dọn đi, nhưng Bố để lại thằng Út cho gia đình chị. Thỉnh thoảng vào những dịp nghỉ hè, tôi xin phép Bố về thăm chị và thằng Út. Chị gặp lại tôi mừng rỡ lắm, dẫn vô nhà thương giới thiệu với mọi người, tôi là em trai cưng của chị. Chị làm việc rất giỏi, cai quản tất cả y tá trong bệnh viện, những khi không có bác sĩ trực, gặp ca khẩn cấp, chị một mình quyết định mọi việc. Tôi vô cùng hãnh diện.
    Sau tết Mậu Thân, tôi phải nhập ngũ, nay đây mai đó chẳng còn dịp nào về thăm chị và thằng Út. Đôi khi nhận được thơ chị ở những nơi đèo heo hút gió, tôi mừng lắm, giữ gìn rất kỹ những bức thư đó, bỏ vào ba lô. Khi đi hành quân, rảnh rỗi lại mang thơ chị ra đọc. Chị luôn lo lắng cho an nguy của tôi, khuyên tôi xin đổi về thành phố cho an toàn. Chị đâu có biết, đời lính sai đâu đi đó, làm sao xin xỏ được. Có lần nghe chị kể, có anh chàng Bác Sỹ mới ra trường, làm việc ở nhà thương muốn xin cưới chị, hỏi tôi có được không? Tôi biết chị làm bộ hỏi, cũng như thông báo rằng chị sắp lấy chồng vậy thôi. Tôi có gần anh ấy đâu mà biết con người ấy ra sao, mà nói được hay không được. Tôi nói với chị, khi nào làm đám cưới, có chết tôi cũng dẫn xác về ăn cưới. Tôi chẳng ghen gì, nhưng bỗng thấy buồn, như vừa mất mát một cái gì thương yêu lâu nay vẫn dấu kín trong tim mình. Ngày Mẹ tôi mất, tôi cũng chẳng buồn như thế, có lẽ lúc đó tôi còn bé quá chăng? Thì ra, giữa tình chị em, chắc còn có một cái gì khác, rất mờ nhạt, khi ẩn khi hiện trong đáy tim tôi, tôi không bao giờ nhìn thấy rõ, cho đến khi sắp vuột khỏi tầm tay. Tôi chẳng có tình yêu thương của Mẹ, cũng chẳng có người yêu bé nhỏ nào trong lòng, cho nên vừa buồn vừa giận vu vơ. Không biết buồn giận ai, và buồn giận cái gì? Không biết vì sao nước mắt tôi cứ tuôn ra, hình ảnh vui tươi của chị cứ hiện ra trước mặt tôi. Bao nhiêu gian khổ nguy hiểm đời lính tôi chẳng coi ra gì.
    Chiến cuộc một ngày một khốc liệt hơn, đoàn quân di chuyển thất thường không báo trước, cho nên lâu ngày bặt tin tức nhà. Rồi miền Trung thất thủ, tôi may mắn nhảy lên được một chiếc tàu Hải Quân, về Vũng Tàu. Chẳng bao lâu trôi dạt qua Subic Bay bên Phi Luật Tân, rồi qua Mỹ. Mấy đứa em tôi, đứa mất tích, đứa đi tù, mình tôi lang thang nơi xứ người, quạnh hiu, cô đơn, làm lại cuộc đời từ con số không to tướng.
    Đầu thập niên 90, tôi trở về thăm chị và Út. Chị ôm tôi khóc mãi, còn Út chẳng biết tôi là ai. Tôi hỏi chị, anh rể của tôi đâu? Chị nói anh ấy bị động viên đi ngành quân Y và chết trên đường số 7 khi di tản từ Pleiku về Tuy Hòa. Chị chẳng có con cái gì và vẫn được làm ở bệnh viện với số lương chết đói. Tôi nghĩ đến câu “Hồng nhan bạc mệnh” mà không cầm được nước mắt. Cuộc đời chị vất vả từ nhỏ nhưng ông Tròi vẫn chưa tha. Tôi giúp chị một số tiền để xây lại căn nhà nay đã hư hại rất nhiều. Út đã là một chàng thanh niên cao lớn, ngoan ngoãn, thương yêu và săn sóc cha mẹ. Nó rất nghe lời chị làm tôi thấy ấm lòng. Chị Linh thương nó lắm và muốn nó theo nghề nghiệp của chị. Tôi hỏi chị, tôi có người bạn làm cùng sở, hiền lương chăm chỉ, độc thân, chị có muốn tôi làm mai không? Chị đỏ mặt nhưng không nói gì. Tôi chọc chị: “Già rồi mà còn mắc cỡ!”, nhớ khi xưa chị chọc tôi: “Bé bằng quả ớt mà bầy đặt mắc cỡ!”
    Năm sau, tôi dẫn người bạn đó về thăm chị.
 

– Minh Đạo Nguyễn Thạch Hãn

                                                                                               

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhạc sĩ Hùng Lân mất vào ngày 17/9/1986 tại Sài Gòn. Hôm nay, ngày 17/9/2025 tôi nhớ tới ông. Tính ra đã 39 năm. Ba năm trước, tại nhà thờ Phanxicô Dakao đã có một lễ giỗ 36 năm ngày mất của ông. Linh mục Đỗ Xuân Quế, chủ tế lễ giỗ, đã nói trong thánh lễ: “‘Hôm nay là lễ giỗ thứ 36 của ông Phêrô Hoàng Văn Hương tức là nhạc sĩ Hùng Lân. Ông là người đáng cho chúng ta trân trọng và quý nhớ. Vậy chúng ta hãy cùng nhau cầu nguyện cho ông được vào nước Thiên Chúa. Nếu ông đã được vào rồi thì xin nhớ đến chúng ta là những người đang tiếp tục cuộc hành trình nơi dương thế đang hướng về Nước Trời.” Sau thánh lễ là chương trình tưởng niệm trong đó có tiết mục trình diễn nhạc của Hùng Lân, cả nhạc đạo lẫn nhạc đời. Người dẫn chương trình cho tiết mục này là nhạc sĩ Cao Huy Hoàng, đến từ Phan Thiết. Ông chia sẻ: “Nếu ngày ấy, thầy Hùng Lân qua đời, Chúa hỏi ‘nén bạc của ta đâu?’, thầy có lẽ không trả lời hoặc chưa trả lời kịp thì hôm nay, chúng ta có thể nhìn lại và thấy được rằng nén bạc của thầ
« Chưa gặp em tôi đã nghĩ rằng, có người con gái đẹp như trăng… khi gặp em rõ thấy một bà chằng! » … Chằng tinh, hay chằn tinh là một loài người hay cũng coi là một loài quỷ hung ác. Tùy vào hoàn cảnh, tùy vào người ta gặp, ta đối diện. Nay thế giới có nhiều loại chằn tinh, chằn ở trong mọi lãnh vực, chính trị, văn hoá, kinh tế, giáo dục và cả trong xã hội v.v…Do đấy, ta muốn tìm hiểu nguyên do chằn ở đâu ra. Hẳn là trong văn hóa Nam Bộ Việt Nam - Ấn Độ - Khmer…? Theo tác giả Huỳnh Thanh Bình, chằn là một loại sinh vật truyền kỳ, làm hộ pháp, canh giữ chùa, tháp, chánh điện phật giáo nam truyền và chiếm vị trí quan trọng trong văn hóa và tâm linh của người Khmer nam bộ, phổ biến trong kho tàng truyện kể dân gian và tuồng tích sân khấu của đa phần người Đông Nam Á.
Cả ông ta và tôi cùng cười xòa. Ui, mình đúng là đãng trí thứ thiệt. Phần Lan đã gia nhập Eurozone từ 1999 và dùng Euro ngay từ buổi đầu như những quốc gia thành viên khác. Ngày trước, nhắc đến những thủ đô bắc Âu, người ta thường nghĩ đến Oslo giàu có của Na Uy, Copenhagen trẻ trung của Đan Mạch. Giờ đây, Helsinki dần dà từng bước góp mặt vào danh sách những thủ đô được du khách ưa chuộng. Sức thu hút của thành phố ngày càng tăng. Từ 15 năm nay, Helsinki là một trong những thành phố tân tiến nhất Âu châu.
Bà xỏ chân vào đôi dép, lê lẹp xẹp vào buồng. Bà lấy ra một bịch nhựa trong đó đựng trăm thứ lặt vặt không ra hình thù gì. Bà nhìn trước, ngó sau như người ăn trộm. Chị mua ve chai đứng ở ngoài cửa bếp. Như một việc đã quá quen thuộc, chị đón lấy cái túi, móc vào cái cân xách. Trước kia chị phân loại giấy ra giấy, nhựa ra nhựa, nay thì hai bên đã thỏa thuận với nhau là có một cái giá trung bình cho toàn thể. Bà thì nhìn đăm đăm vào mớ hàng lặt vặt ấy như nhìn một thứ gì quý giá lắm. Mà không quý sao được, vì đó là kết quả của nhiều tuần bà lượm lặt và cất giữ.
Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi.
*SONG THAO Tôi chừ chỉ chơi thể thao trên ghế sa-lông, ngồi coi người ta chơi. Thứ tôi coi người ta chơi là hockey, tennis và đôi khi bóng tròn. Mình không còn khả năng thì coi người ta chạy nhảy cũng là một cách chơi. Cách chơi biết mình biết ta. Các ông bạn tôi cũng chơi như tôi. Có điều mỗi người chơi theo ý thích riêng của mình. Ông Hoàng Xuân Sơn, ông Luân Hoán cũng na ná như tôi. Nhưng ông Luân Hoán hơi ngả về bóng tròn. Ông Hồ Đình Nghiêm máu mê hơn. Ông sa đà vào bóng tròn. Thời gian vừa qua, ông coi giò coi cẳng các nữ nhân tranh giải bóng tròn thế giới FIFA một cách mê mệt. Ngày ngày ông bá cáo bà con trên Facebook tường tận về từng cặp chân vàng mà trắng, cô nào đá hay, cô nào chụp banh giỏi, ông rành như có họ hàng thân thiết.
Bạn có thể xem bài này như truyện ngắn. Có thể gọi là nhiều truyện ngắn trong một truyện ngắn, hay là ghép từ nhiều mẩu truyện. Bạn cũng có thể đọc như tùy bút, hay bản tin, hay là vân vân... nghĩa là bất cứ những gì có chữ, có thể đọc lên, có thể nghe được như âm thanh. Đó là những gì tự nhiên hiện lên trong trí nhớ của tôi, những gì tôi bất chợt nghe bên tai khi ngồi bên sông, ven biển, góc rừng, hay khi nửa đêm nhìn ra hàng hiên.
Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết.
Hôm đó, cô nhất định phải giết cây dạ quỳnh. Khi đêm tối bao phủ, cô sẽ ra tay. Lấy một con dao bén để xắt cành lá nó ra từng mảnh nhỏ. Lấy chai thuốc Draino loại hủy hoại rễ cây để ngâm hết các rễ của nó. Nó phải chết một cách tiệt tích, không còn một chút cơ hội nào sống sót. Nó phải bị phơi khô trên cao vì Quỳnh đụng đất sẽ có thể mọc lại. Cô biết, giết Quỳnh là mất đi tiếng nói vo ve chị em tâm sự. Cô đơn khi có Quỳnh sẽ thay vào cô đơn không có Quỳnh. Cô sẽ bắt đầu một cô đơn khác.
Càng lớn tuổi chừng nào, thì người ta lại thường hay nhớ tới những kỷ niệm trong dĩ vãng của mình nhiều bấy nhiêu. Nhất là những người cao niên đã về hưu, không còn bị ràng buộc bởi những công việc làm thường ngày của mình như trước kia, nên có nhiều thì giờ rảnh rỗi ngồi ở nhà một mình, để hồi tưởng lại những kỷ niệm buồn vui khó quên trong cuộc đời mình, rồi để có những lúc tâm sự cho nhau nghe lại những kỷ niệm khó quên này, trong những dịp tiệc tùng họp mặt bạn bè.
Lộc đã chết! Tích ngỡ ngàng khi nghe tin đó. Chàng không tin vào tai mình. Làm sao Lộc có thể chết được? Mình mới gặp anh ấy có tuần trước thôi mà! Trông anh còn khỏe mạnh, tự tin, tràn đầy sức sống. Vậy mà bây giờ anh đã không còn nữa. Cái chết của anh có cái gì đó không thật. Và có lẽ đó là lần đầu tiên Tích đứng trước nhận thức trực tiếp và thâm sâu về tính chất phi lý của một sự kiện quá bình thường trên đất nước chiến tranh này.
Từ giữa tháng Tám, trước ngày Lễ Labour Day, các trung tâm shopping đã rầm rộ quảng cáo “On Sale” cho mùa “Back To School”. Các con tôi đã lớn, qua rồi cái thuở đi sắm backpacks, tập vở, giấy bút, lunch bags, áo quần, nhưng lòng tôi vẫn nao nao bâng khuâng nhớ về những kỷ niệm ấy. Cũng có lúc tôi lại nh ... chính tôi, ngày xưa là cô giáo trẻ khi còn ở Việt Nam, và nhất là những tháng ngày ở trại tỵ nạn Thailand, làm cô giáo “đặc biệt” có những học trò cũng rất “đặc biệt”.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.