Hôm nay,  

thu hằn…

08/09/202411:14:00(Xem: 2501)
Ann P 12
Tranh mịnh họa: Ann Phong

 

Nắng hạ còn từng vạt, từng vạt chen giữa những hàng cây đã nhuốm vàng, không khí oi bức mà người quê hắn gọi là trời nực giông. Trời nực giông thường có mưa rào to hạt nhưng mau tạnh, sau đó hơi đất bốc lên làm nhiều người cảm nắng cảm mưa, người quê quen gọi là bệnh trái gió trở trời. Con người với trời đất có mối tương quan mà khi trẻ hắn đã không hiểu những vạt nắng dưới dạ cầu mang trong nắng bao nhiêu huyền cơ màu nhiệm. Hắn chỉ biết ngồi ngắm lục bình trôi vô định như tương lai của hắn trong bối cảnh nhà tan cửa nát, người thân, bạn bè chia chung lưỡi hái tử thần, từ biệt nhau bằng lời trăn trối mày ráng tới bến bờ, mày ở lại bình an. Hắn không tiền nên không như bạn bè tìm đủ cách ra đi, hắn nhàn cư vi hay sao mà lại đi yêu trái mùa vượt biên nên người ngồi bên cạnh hắn như mưa rào to hạt nhưng mau tạnh trong bối cảnh xã hội đang ngùn ngụt hơi đất xông lên làm vạn người bỏ nước ra đi. Vạt lục bình chìm xuống nước sau khi ra hoa thật đẹp, vạt nắng cuối ngày chìm vào bóng tối mênh mông. Hắn nhuốm bệnh nhớ nhung từ độ…

   Thời tiết quê nhà đã bao năm chưa quên dù đã bao năm cuối hạ bên này, trời vẫn còn nóng nhưng đã nghe hơi thu về với những làn gió sớm mát lạnh, những sớm sương mù chóng tan khi mặt trời lên sớm, chưa muộn như mặt trời mùa thu. Thời tiết mùa thu về không chỉ có những cảm nhận mà rõ ràng nhất vẫn là những chiếc lá vàng sớm xa cành. Nhớ hình ảnh chồi non rồi lá mới trên những nhánh cây khô tháng ba làm không gian như sống lại, sống dậy sau mùa đông khắc nghiệt. Nhưng thoáng đó đã thu về cho lá vàng rơi, tựa đời người mặc tình giẫm đạp lên thời gian không sợ quả báo thì chỉ còn nhãn tiền là ít ai thấy mình già vì gặp nhau mỗi ngày qua gương soi buổi sáng trong nhà tắm, đàn ông chải đầu ba bảy là xong, phụ nữ trang điểm lâu hơn nên chóng già trước tuổi. Khi gặp lại những gương mặt thương hoài ngàn năm, ngoài niềm vui sum họp là nỗi buồn chơi vơi về tuổi tác. Nghĩ ngược lại là chính mình cũng đã già vì bạn bè cùng thời, đâu ai tránh khỏi dấu vết thời gian để lại trên mỗi mặt người theo năm tháng, nghĩ về cái giá hờ hững với thời gian thì đâu ai còn trẻ.

    Là trả lời cho bốn mươi năm, cứ vào thu, hắn chưa bao giờ quên gởi đi một lời chúc sinh nhật, để sau đó thẫn thờ dặn lòng đừng làm thế nữa vì không có ích gì cho cả hai. Hãy để ngày ấy lụi tàn sẽ nhẹ nhàng hơn cho cả hai trong cuộc sống không có đường quay lại mỗi lần nhìn thấy lá vàng rơi là thêm một mùa thu xa cách. Từ những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật tự vẽ thời hoa mộng, nỗi lòng là nét vẽ dưới dạ cầu như những giọt cà phê rơi từng giọt làm trang giấy loang lổ chuyện kẻ ở người đi khi tình đã mênh mông như biển thì đã hai phương trời cách biệt. Cuộc sống cơm áo gạo tiền trong nước đâu phải dễ thời bao cấp xa xưa, nghĩ đến cuộc sống chân ướt chân ráo nơi xứ người cũng gian nan không kém làm cho những thu về thêm khắc khoải. Thương một người rất dễ khi còn trẻ vì chỉ cần thấy nhau là tim đã run bần bật, cho nhau ánh nhìn mến mộ, dẫn dụ đôi lời dễ nghe đã đủ vấn vương. Kết thân không bao giờ là lỗi từ một phía nên họ yêu nhau theo tiếng lòng. Tình yêu sâu đậm theo ngày tháng khi sự trọn vẹn ngày một mong manh trong bối cảnh lịch sử “cây cột đèn biết đi cũng vượt biên” nên tình yêu cũng không có ngoại lệ vào thời phản bội. Mỗi người ôm vết sẹo trong tim mình, ý thức rõ những cơn đau không bệnh khi thu về, mỗi mùa lá rụng bên thềm nghe tiếng chân bước cũ trong giấc mơ hoang. Hắn nhủ lòng hy vọng còn sẽ còn, đừng bao giờ đánh mất hy vọng… cho đến vào thu nơi góc quán quen ở quê nhà, hắn mở thư ra đọc tin em lấy chồng mới hay cái ghế bên cạnh đã vắng người. Hy vọng hấp hối một ngày hai đứa lại cùng ngồi xuống chốn cũ này để toan tính đời thường nhưng chỉ có tương lai mờ dần bên bờ ảo vọng…

 
  Tuy không còn ở đó nhưng hắn vẫn thường nhớ những chiếc lá vàng trên cây khế nhẹ rơi, giàn hoa giấy rực rỡ cười với nắng trước mưa chiều. Cái máy hát cũ kỹ với băng đĩa nhão vừa hợp với nhạc sến, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở…” Hắn gởi gió cho mây ngày bay một đoạn đời hư thực huyền ảo như lời nhạc rả rích từ cái máy hát lớn tuổi hơn hắn lúc bấy giờ khi những toan tính về tương lai chưa có đáp số thì bài toán một với một đã không bao giờ là hai từ khi em lấy chồng.

   Nhưng hắn vẫn tiếp tục gởi đi những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật khi mùa thu đến, những năm mới đến Mỹ còn kiên trì viết thêm lời chúc an vui trong bất lực con tim giữa cuộc sống Mỹ đã làm thay đổi con người hắn hay hắn đã thay đổi theo cuộc sống bên này nên hiểu được lời chúc an vui là lưỡi dao khứa vào tim nhau đã thoi thóp từ thôi gặp. Từ ấy vào thu chỉ còn cái tin nhắn chúc mừng sinh nhật gởi đi khi thức dậy vào ngày sinh nhật, cái ngày đã đi vào đồng hồ sinh học trong cơ thể hắn từ bao giờ đến không cần nhớ, cứ đến ngày ấy thì đồng hồ sinh học reo khi thức dậy. Và đã bốn mươi năm rồi thì gấp gáp hay nhẩn nha cũng đến ngày này năm sau, khi lá vàng bắt đấu rơi thì đồng hồ sinh học lại báo thức trái tim không ngủ yên để lặng lẽ gởi đi lời chúc mừng sinh nhật. Lòng cầu mong bình an cho nhau không nói ra nữa nên ngày càng cô đậm đến không viết ra được gì khác ngoài bốn chữ chúc mừng sinh nhật để biết nhau còn sống.

   Nhưng năm ngoái hắn nhận được hồi âm nhiều hơn hai chữ “cảm ơn” bình thường đã nhiều năm từ khi em lấy chồng. Ngoảnh lại đã bạc đầu hay tin: con em đã học xong và có người đã cầu hôn nó. Hắn ngồi nhìn bức ảnh đôi trẻ đẹp và lãng mạn hơn đôi trẻ thiếu may mắn ngày nào để có tấm ảnh đẹp và lãng mạn như vậy khi tất cả đã thành cổ tích. Cổ tích của thời đại mơ ước được bên nhau nhỏ hơn mơ ước được bay xa, và đã đến lúc mơ ước được bay xa nhỏ hơn mơ ước được quay về… Hắn muốn viết hồi âm, “nhà xưa còn đó nhưng hai con người đã lạ xa với chính mình, em hiểu không?” Nhưng sao nhấn nút “gửi” khó khăn khi niềm hy vọng chết mất xác từ lâu lại hồi sinh như vi khuẩn cổ đại tái hiện theo biến đổi khí hậu, tình xưa cũng hồi sinh khi hấp hối về trời. Điều hắn sợ ngày xưa là người đi, đã đi. Điều hắn sợ bây giờ là người về, đã về. Hắn sợ đến mất trí cả năm nữa trôi qua, hắn vẫn không có lời giải cho việc không có tấm ảnh đẹp nên mối tình đôi mươi còn đó với thời gian hai mươi năm xa cách bên trời, rồi hai mươi năm nữa bên đời hiu quạnh vì quá gần, nhưng nghịch lý thêm hai mươi năm nữa cho người có bình an, Hắn tạ ơn trên với điều biết được khi giả sử có tấm ảnh mơ ước thời đôi mươi thì nay tay vẫn trong tay lúc bạc đầu hay kẻ ở người đi thêm lần nữa…

    Những chiếc lá vàng đầu mùa lá rụng đã lao chao ngoài sân vắng, vạn lá trên cây rồi sẽ về cội với đông phong. Những chiếc lá sớm xa cành là may hay rủi? Hắn chờ chiếc lá cuối cùng của những mùa thu đã hằn lên mắt ảnh. Tấm ảnh hắn vừa nhận được hồi âm hơn hai chữ “cảm ơn” là tấm ảnh biển vắng bên Hawaii. Núi lửa vẫn hừng hực, biển nhớ vẫn du dương ru đời vào quên lãng. Hắn nhặt lấy sợi tóc trắng bay về phía quê nhà vì không còn ai ở đó nên vạt nắng dạ cầu thôi đợi lục bình trôi khi tất cả đã cuốn theo chiều gió, theo chiếc lá vàng vừa rơi khỏi cây khế tiềm thức, cây sồi hiện hữu đã già ngoài sân nắng còn hung đã thu về…

 
Phan 

Phan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Con gái của tôi, làm Registered Nurse trong một bệnh viện. Bữa đó, nó bước vào phòng thăm một bệnh nhân nam, cỡ tuổi gần 70, đang truyền đạm truyền nước vì gặp vấn đề tiêu hoá, đúng lúc bác ấy đang facetime nói chuyện với người ở nhà bằng Tiếng Việt. Nó sinh ra ở Canada, nhưng có khiếu Tiếng Việt, nghe và nói khá rành rẽ, chỉ có đọc và viết thì nó không biết...
Năm 1972 là quãng thời gian với nhiều lo âu cho tôi và các bạn nam sinh cùng lớp vì hết niên học chúng tôi phải qua kỳ thi Tú tài I, đậu hay rớt tương lai sẽ là những khúc rẽ cuộc đời...
Bốn người chúng tôi ở lại Kontum và Pleiku một thời gian khá dài, không khí miền cao nguyên dầu sao cũng trong lành và mát mẻ hơn ở Sài Gòn. Chúng tôi đi thăm lại những nơi trong thời niên thiếu đã đi qua, viếng đền Đức Mẹ Măng Đen phía Bắc Kontum với bức tượng Mẹ bị cụt cả hai bàn tay do chiến tranh. Chúng tôi trở về mái trường xưa, chủng viện thừa sai Kontum và ở lại nơi này 4 ngày, nhìn lại ngôi nhà nguyện nhỏ bé, từng lớp học thân thương, căn phòng ngủ ngày xưa chúng tôi trùm mền, lén thày giám thị, lấy đậu phộng và khoai lang deo ra ăn. Nhìn lại chốn xưa mà lòng dâng lên biết bao cảm xúc buồn vui thời học trò...
Sau khi viếng thăm Corpus Christi chúng tôi trở lại thành phố Houston, thành phố lớn nhất của Texas. Trong những ngày đầu lập quốc, thành phố Houston đã từng là thủ đô tạm thời của “nước Texas”, sau đó thủ đô chính thức được dời sang thành phố Austin...
Thằng Thảo cà chớn, cà khịa với thằng Thọ. Nó biết anh nó thích nhỏ Mai, năm rồi thằng Thọ sang nhà nhỏ Mai lặt lá mai cả mấy buổi chiều. Nhỏ Mai học chung lớp với Thọ, hai đứa thường đi học chung đường, bề ngoài thì là bạn bè nhưng tình ý đã lắm rồi, tuy cả hai còn e dè. Đứa nào cũng giả đò vu vơ nhưng làm ánh mắt đã nói lên hết, đôi khi người ta cũng bắt quả tang hai đứa ôm nhau dấm dúi hôn lén sau gốc dừa...
Đã mịt mù trong trí nhớ, trong ký ức về đường hoa Nguyễn Huệ mỗi độ xuân về. Nếu bảo là không nhớ gì nữa thì không đúng vì quên là nhớ nhất nên cố quên đi, tốt nhất là quên đi những kỷ niệm ngọt ngào, những ký ức thân thương khi đã là dĩ vãng, nhưng càng cố quên càng nhớ nhiều như câu thơ bất hủ của tiền bối Bùi Giáng, “uống xong ly rượu cùng nhau/ hẹn rằng mãi mãi quên nhau muôn đời…” giữa dòng đời mùa xuân phía trước miên trường phía sau, trong bất lực khi nhìn lại, nhớ về, trong đời người ngắn ngủi chỉ đủ thời gian để “xin chào nhau giữa đoạn đường/ mùa xuân phía trước miên trường phía sau/ uống xong ly rượu cùng nhau/ hẹn rằng mãi mãi quên nhau muôn đời…” tri kỷ ở trong tâm chứ không ngoài cửa miệng. Người ta bảo thương nhau lắm, nhớ nhau nhiều khi trong lòng đã quên và ngược lại là quay quắt nhớ trong thầm lặng đến muôn đời…
Tôi vốn ăn nói vụng về nên rất sợ những người đa ngôn, hay lý luận. Nhưng ghét của nào trời trao của ấy. Lúc đã lâm hoàn cảnh tù tội, dun dủi sao tôi lại bị sắp xếp ở cạnh một ông già lắm chuyện: ông Roan. Vừa mới biết nhau ông đã tự giới thiệu ông là một cựu Trưởng Chi Thông Tin Chiêu Hồi. Ông cũng nói ông từng là một nhà thơ có chút tiếng tăm. Thỉnh thoảng ông lại ọ ẹ ngâm vài câu thơ, phần nhiều là thơ Kiều. Hình như cái miệng ông không biết mệt mỏi. Ông cứ kể cho tôi nghe chuyện này, chuyện nọ lung tung...
Thưa ngài thi sĩ, yêu là yêu, là vướng mắc, yêu là yêu không bờ bến rồi, là cho đi tình cảm, cho đi những xúc động nồng nàn, nào ai có thì giờ so bì phút đầu tiên ấy, là có được hay không được đền bù hay không? Lãng mạn là sóng tràn bờ và không so đo tính toán...
Vốn là một sản phẩm của nền Hán học nhưng khi nền Hán học cáo chung thì chơi câu đối vẫn là một thú chơi tao nhã. Ngày xưa mỗi độ xuân về, nhà nhà trưng câu đối. Bậc thức giả thì câu đối đầy ý nghĩa thâm sâu, điển cố xa xưa. Người bình dân thì câu đối giản dị hơn, gần gũi đời sống hằng ngày hơn; chung quy cũng là nói lên chí hướng, chúc phúc, cầu may mắn, gởi gắm tâm tư…
Năm Nhâm Dần sắp hết, năm Quý Mão đã lấp ló bên hiên nhà. Trong cái lạnh thấu xương của những ngày cuối đông, mọi người bỗng thấy thời gian qua mau. Mặc cho Ông Hổ gặm mối căm hờn trong cũi sắt, con thú cưng của nhiều gia đình cứ nhởn nhơ đi lại trong nhà...
Anne Khánh Vân, sinh năm 1974 tại Saigon, tốt nghiệp kinh tế tại Pháp và Mỹ, hiện sống và làm việc tại miền Đông Hoa Kỳ. Tham gia VVNM từ những năm đầu của giải thưởng, tác giả nhận giải Chung Kết Viết Về Nước Mỹ 2007 với tự truyện “Duyên Nợ Với Nước Mỹ.“, nhận giải Việt Bút Trùng Quang năm 2021. Đây là bài VVNM mới nhất của cô gửi đến Việt Báo cuối năm Nhâm Dần.
Sáng thứ hai đi làm, anh bạn già của tôi đội cái nón kết hơi sặc sỡ như mùa hè chứ không phải mùa đông. Tôi nhớ tay này giống tôi, thuộc loại người không thích đội nón sao mùa lạnh này lại chịu trùm lên đầu cái nón kết? Chưa kịp hỏi thì anh ta lại hỏi tôi trước khi vào đến chỗ làm, “ông thấy tôi đội cái nón này có được không?” Tôi trả lời gọn lỏn vì sáng sớm lười nói, “Được thì được chắc rồi vì nón đâu có rớt xuống đất.”


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.