Hôm nay,  

thu hằn…

08/09/202411:14:00(Xem: 2418)
Ann P 12
Tranh mịnh họa: Ann Phong

 

Nắng hạ còn từng vạt, từng vạt chen giữa những hàng cây đã nhuốm vàng, không khí oi bức mà người quê hắn gọi là trời nực giông. Trời nực giông thường có mưa rào to hạt nhưng mau tạnh, sau đó hơi đất bốc lên làm nhiều người cảm nắng cảm mưa, người quê quen gọi là bệnh trái gió trở trời. Con người với trời đất có mối tương quan mà khi trẻ hắn đã không hiểu những vạt nắng dưới dạ cầu mang trong nắng bao nhiêu huyền cơ màu nhiệm. Hắn chỉ biết ngồi ngắm lục bình trôi vô định như tương lai của hắn trong bối cảnh nhà tan cửa nát, người thân, bạn bè chia chung lưỡi hái tử thần, từ biệt nhau bằng lời trăn trối mày ráng tới bến bờ, mày ở lại bình an. Hắn không tiền nên không như bạn bè tìm đủ cách ra đi, hắn nhàn cư vi hay sao mà lại đi yêu trái mùa vượt biên nên người ngồi bên cạnh hắn như mưa rào to hạt nhưng mau tạnh trong bối cảnh xã hội đang ngùn ngụt hơi đất xông lên làm vạn người bỏ nước ra đi. Vạt lục bình chìm xuống nước sau khi ra hoa thật đẹp, vạt nắng cuối ngày chìm vào bóng tối mênh mông. Hắn nhuốm bệnh nhớ nhung từ độ…

   Thời tiết quê nhà đã bao năm chưa quên dù đã bao năm cuối hạ bên này, trời vẫn còn nóng nhưng đã nghe hơi thu về với những làn gió sớm mát lạnh, những sớm sương mù chóng tan khi mặt trời lên sớm, chưa muộn như mặt trời mùa thu. Thời tiết mùa thu về không chỉ có những cảm nhận mà rõ ràng nhất vẫn là những chiếc lá vàng sớm xa cành. Nhớ hình ảnh chồi non rồi lá mới trên những nhánh cây khô tháng ba làm không gian như sống lại, sống dậy sau mùa đông khắc nghiệt. Nhưng thoáng đó đã thu về cho lá vàng rơi, tựa đời người mặc tình giẫm đạp lên thời gian không sợ quả báo thì chỉ còn nhãn tiền là ít ai thấy mình già vì gặp nhau mỗi ngày qua gương soi buổi sáng trong nhà tắm, đàn ông chải đầu ba bảy là xong, phụ nữ trang điểm lâu hơn nên chóng già trước tuổi. Khi gặp lại những gương mặt thương hoài ngàn năm, ngoài niềm vui sum họp là nỗi buồn chơi vơi về tuổi tác. Nghĩ ngược lại là chính mình cũng đã già vì bạn bè cùng thời, đâu ai tránh khỏi dấu vết thời gian để lại trên mỗi mặt người theo năm tháng, nghĩ về cái giá hờ hững với thời gian thì đâu ai còn trẻ.

    Là trả lời cho bốn mươi năm, cứ vào thu, hắn chưa bao giờ quên gởi đi một lời chúc sinh nhật, để sau đó thẫn thờ dặn lòng đừng làm thế nữa vì không có ích gì cho cả hai. Hãy để ngày ấy lụi tàn sẽ nhẹ nhàng hơn cho cả hai trong cuộc sống không có đường quay lại mỗi lần nhìn thấy lá vàng rơi là thêm một mùa thu xa cách. Từ những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật tự vẽ thời hoa mộng, nỗi lòng là nét vẽ dưới dạ cầu như những giọt cà phê rơi từng giọt làm trang giấy loang lổ chuyện kẻ ở người đi khi tình đã mênh mông như biển thì đã hai phương trời cách biệt. Cuộc sống cơm áo gạo tiền trong nước đâu phải dễ thời bao cấp xa xưa, nghĩ đến cuộc sống chân ướt chân ráo nơi xứ người cũng gian nan không kém làm cho những thu về thêm khắc khoải. Thương một người rất dễ khi còn trẻ vì chỉ cần thấy nhau là tim đã run bần bật, cho nhau ánh nhìn mến mộ, dẫn dụ đôi lời dễ nghe đã đủ vấn vương. Kết thân không bao giờ là lỗi từ một phía nên họ yêu nhau theo tiếng lòng. Tình yêu sâu đậm theo ngày tháng khi sự trọn vẹn ngày một mong manh trong bối cảnh lịch sử “cây cột đèn biết đi cũng vượt biên” nên tình yêu cũng không có ngoại lệ vào thời phản bội. Mỗi người ôm vết sẹo trong tim mình, ý thức rõ những cơn đau không bệnh khi thu về, mỗi mùa lá rụng bên thềm nghe tiếng chân bước cũ trong giấc mơ hoang. Hắn nhủ lòng hy vọng còn sẽ còn, đừng bao giờ đánh mất hy vọng… cho đến vào thu nơi góc quán quen ở quê nhà, hắn mở thư ra đọc tin em lấy chồng mới hay cái ghế bên cạnh đã vắng người. Hy vọng hấp hối một ngày hai đứa lại cùng ngồi xuống chốn cũ này để toan tính đời thường nhưng chỉ có tương lai mờ dần bên bờ ảo vọng…

 
  Tuy không còn ở đó nhưng hắn vẫn thường nhớ những chiếc lá vàng trên cây khế nhẹ rơi, giàn hoa giấy rực rỡ cười với nắng trước mưa chiều. Cái máy hát cũ kỹ với băng đĩa nhão vừa hợp với nhạc sến, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở…” Hắn gởi gió cho mây ngày bay một đoạn đời hư thực huyền ảo như lời nhạc rả rích từ cái máy hát lớn tuổi hơn hắn lúc bấy giờ khi những toan tính về tương lai chưa có đáp số thì bài toán một với một đã không bao giờ là hai từ khi em lấy chồng.

   Nhưng hắn vẫn tiếp tục gởi đi những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật khi mùa thu đến, những năm mới đến Mỹ còn kiên trì viết thêm lời chúc an vui trong bất lực con tim giữa cuộc sống Mỹ đã làm thay đổi con người hắn hay hắn đã thay đổi theo cuộc sống bên này nên hiểu được lời chúc an vui là lưỡi dao khứa vào tim nhau đã thoi thóp từ thôi gặp. Từ ấy vào thu chỉ còn cái tin nhắn chúc mừng sinh nhật gởi đi khi thức dậy vào ngày sinh nhật, cái ngày đã đi vào đồng hồ sinh học trong cơ thể hắn từ bao giờ đến không cần nhớ, cứ đến ngày ấy thì đồng hồ sinh học reo khi thức dậy. Và đã bốn mươi năm rồi thì gấp gáp hay nhẩn nha cũng đến ngày này năm sau, khi lá vàng bắt đấu rơi thì đồng hồ sinh học lại báo thức trái tim không ngủ yên để lặng lẽ gởi đi lời chúc mừng sinh nhật. Lòng cầu mong bình an cho nhau không nói ra nữa nên ngày càng cô đậm đến không viết ra được gì khác ngoài bốn chữ chúc mừng sinh nhật để biết nhau còn sống.

   Nhưng năm ngoái hắn nhận được hồi âm nhiều hơn hai chữ “cảm ơn” bình thường đã nhiều năm từ khi em lấy chồng. Ngoảnh lại đã bạc đầu hay tin: con em đã học xong và có người đã cầu hôn nó. Hắn ngồi nhìn bức ảnh đôi trẻ đẹp và lãng mạn hơn đôi trẻ thiếu may mắn ngày nào để có tấm ảnh đẹp và lãng mạn như vậy khi tất cả đã thành cổ tích. Cổ tích của thời đại mơ ước được bên nhau nhỏ hơn mơ ước được bay xa, và đã đến lúc mơ ước được bay xa nhỏ hơn mơ ước được quay về… Hắn muốn viết hồi âm, “nhà xưa còn đó nhưng hai con người đã lạ xa với chính mình, em hiểu không?” Nhưng sao nhấn nút “gửi” khó khăn khi niềm hy vọng chết mất xác từ lâu lại hồi sinh như vi khuẩn cổ đại tái hiện theo biến đổi khí hậu, tình xưa cũng hồi sinh khi hấp hối về trời. Điều hắn sợ ngày xưa là người đi, đã đi. Điều hắn sợ bây giờ là người về, đã về. Hắn sợ đến mất trí cả năm nữa trôi qua, hắn vẫn không có lời giải cho việc không có tấm ảnh đẹp nên mối tình đôi mươi còn đó với thời gian hai mươi năm xa cách bên trời, rồi hai mươi năm nữa bên đời hiu quạnh vì quá gần, nhưng nghịch lý thêm hai mươi năm nữa cho người có bình an, Hắn tạ ơn trên với điều biết được khi giả sử có tấm ảnh mơ ước thời đôi mươi thì nay tay vẫn trong tay lúc bạc đầu hay kẻ ở người đi thêm lần nữa…

    Những chiếc lá vàng đầu mùa lá rụng đã lao chao ngoài sân vắng, vạn lá trên cây rồi sẽ về cội với đông phong. Những chiếc lá sớm xa cành là may hay rủi? Hắn chờ chiếc lá cuối cùng của những mùa thu đã hằn lên mắt ảnh. Tấm ảnh hắn vừa nhận được hồi âm hơn hai chữ “cảm ơn” là tấm ảnh biển vắng bên Hawaii. Núi lửa vẫn hừng hực, biển nhớ vẫn du dương ru đời vào quên lãng. Hắn nhặt lấy sợi tóc trắng bay về phía quê nhà vì không còn ai ở đó nên vạt nắng dạ cầu thôi đợi lục bình trôi khi tất cả đã cuốn theo chiều gió, theo chiếc lá vàng vừa rơi khỏi cây khế tiềm thức, cây sồi hiện hữu đã già ngoài sân nắng còn hung đã thu về…

 
Phan 

Phan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.