Hôm nay,  

Thu Hằn…

14/10/202419:04:00(Xem: 3049)

thu vàng
Hình từ fb Nguyễn Bá Trạc

 

Nắng hạ còn từng vạt, từng vạt chen giữa những hàng cây đã nhuốm vàng, không khí oi bức mà người quê hắn gọi là trời nực giông. Trời nực giông thường có mưa rào to hạt nhưng mau tạnh, sau đó hơi đất bốc lên làm nhiều người cảm nắng cảm mưa, người quê quen gọi là bệnh trái gió trở trời. Con người với trời đất có mối tương quan mà khi trẻ hắn đã không hiểu những vạt nắng dưới dạ cầu mang trong nắng bao nhiêu huyền cơ màu nhiệm. Hắn chỉ biết ngồi ngắm lục bình trôi vô định như tương lai của hắn trong bối cảnh nhà tan cửa nát, người thân, bạn bè chia chung lưỡi hái tử thần, từ biệt nhau bằng lời trăn trối mày ráng tới bến bờ, mày ở lại bình an. Hắn không tiền nên không như bạn bè tìm đủ cách ra đi, hắn nhàn cư vi hay sao mà lại đi yêu trái mùa vượt biên nên người ngồi bên cạnh hắn như mưa rào to hạt nhưng mau tạnh trong bối cảnh xã hội đang ngùn ngụt hơi đất xông lên làm vạn người bỏ nước ra đi. Vạt lục bình chìm xuống nước sau khi ra hoa thật đẹp, vạt nắng cuối ngày chìm vào bóng tối mênh mông. Hắn nhuốm bệnh nhớ nhung từ độ…

   Thời tiết quê nhà đã bao năm chưa quên dù đã bao năm cuối hạ bên này, trời vẫn còn nóng nhưng đã nghe hơi thu về với những làn gió sớm mát lạnh, những sớm sương mù chóng tan khi mặt trời lên sớm, chưa muộn như mặt trời mùa thu. Thời tiết mùa thu về không chỉ có những cảm nhận mà rõ ràng nhất vẫn là những chiếc lá vàng sớm xa cành. Nhớ hình ảnh chồi non rồi lá mới trên những nhánh cây khô tháng ba làm không gian như sống lại, sống dậy sau mùa đông khắc nghiệt. Nhưng thoáng đó đã thu về cho lá vàng rơi, tựa đời người mặc tình giẫm đạp lên thời gian không sợ quả báo thì chỉ còn nhãn tiền là ít ai thấy mình già vì gặp nhau mỗi ngày qua gương soi buổi sáng trong nhà tắm, đàn ông chải đầu ba bảy là xong, phụ nữ trang điểm lâu hơn nên chóng già trước tuổi. Khi gặp lại những gương mặt thương hoài ngàn năm, ngoài niềm vui sum họp là nỗi buồn chơi vơi về tuổi tác. Nghĩ ngược lại là chính mình cũng đã già vì bạn bè cùng thời, đâu ai tránh khỏi dấu vết thời gian để lại trên mỗi mặt người theo năm tháng, nghĩ về cái giá hờ hững với thời gian thì đâu ai còn trẻ.

    Là trả lời cho bốn mươi năm, cứ vào thu, hắn chưa bao giờ quên gởi đi một lời chúc sinh nhật, để sau đó thẫn thờ dặn lòng đừng làm thế nữa vì không có ích gì cho cả hai. Hãy để ngày ấy lụi tàn sẽ nhẹ nhàng hơn cho cả hai trong cuộc sống không có đường quay lại mỗi lần nhìn thấy lá vàng rơi là thêm một mùa thu xa cách. Từ những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật tự vẽ thời hoa mộng, nỗi lòng là nét vẽ dưới dạ cầu như những giọt cà phê rơi từng giọt làm trang giấy loang lổ chuyện kẻ ở người đi khi tình đã mênh mông như biển thì đã hai phương trời cách biệt. Cuộc sống cơm áo gạo tiền trong nước đâu phải dễ thời bao cấp xa xưa, nghĩ đến cuộc sống chân ướt chân ráo nơi xứ người cũng gian nan không kém làm cho những thu về thêm khắc khoải. Thương một người rất dễ khi còn trẻ vì chỉ cần thấy nhau là tim đã run bần bật, cho nhau ánh nhìn mến mộ, dẫn dụ đôi lời dễ nghe đã đủ vấn vương. Kết thân không bao giờ là lỗi từ một phía nên họ yêu nhau theo tiếng lòng. Tình yêu sâu đậm theo ngày tháng khi sự trọn vẹn ngày một mong manh trong bối cảnh lịch sử “cây cột đèn biết đi cũng vượt biên” nên tình yêu cũng không có ngoại lệ vào thời phản bội. Mỗi người ôm vết sẹo trong tim mình, ý thức rõ những cơn đau không bệnh khi thu về, mỗi mùa lá rụng bên thềm nghe tiếng chân bước cũ trong giấc mơ hoang. Hắn nhủ lòng hy vọng còn sẽ còn, đừng bao giờ đánh mất hy vọng… cho đến vào thu nơi góc quán quen ở quê nhà, hắn mở thư ra đọc tin em lấy chồng mới hay cái ghế bên cạnh đã vắng người. Hy vọng hấp hối một ngày hai đứa lại cùng ngồi xuống chốn cũ này để toan tính đời thường nhưng chỉ có tương lai mờ dần bên bờ ảo vọng…



   Tuy không còn ở đó nhưng hắn vẫn thường nhớ những chiếc lá vàng trên cây khế nhẹ rơi, giàn hoa giấy rực rỡ cười với nắng trước mưa chiều. Cái máy hát cũ kỹ với băng đĩa nhão vừa hợp với nhạc sến, “tình chỉ đẹp khi còn dang dở…” Hắn gởi gió cho mây ngày bay một đoạn đời hư thực huyền ảo như lời nhạc rả rích từ cái máy hát lớn tuổi hơn hắn lúc bấy giờ khi những toan tính về tương lai chưa có đáp số thì bài toán một với một đã không bao giờ là hai từ khi em lấy chồng.

   Nhưng hắn vẫn tiếp tục gởi đi những cánh thiệp chúc mừng sinh nhật khi mùa thu đến, những năm mới đến Mỹ còn kiên trì viết thêm lời chúc an vui trong bất lực con tim giữa cuộc sống Mỹ đã làm thay đổi con người hắn hay hắn đã thay đổi theo cuộc sống bên này nên hiểu được lời chúc an vui là lưỡi dao khứa vào tim nhau đã thoi thóp từ thôi gặp. Từ ấy vào thu chỉ còn cái tin nhắn chúc mừng sinh nhật gởi đi khi thức dậy vào ngày sinh nhật, cái ngày đã đi vào đồng hồ sinh học trong cơ thể hắn từ bao giờ đến không cần nhớ, cứ đến ngày ấy thì đồng hồ sinh học reo khi thức dậy. Và đã bốn mươi năm rồi thì gấp gáp hay nhẩn nha cũng đến ngày này năm sau, khi lá vàng bắt đấu rơi thì đồng hồ sinh học lại báo thức trái tim không ngủ yên để lặng lẽ gởi đi lời chúc mừng sinh nhật. Lòng cầu mong bình an cho nhau không nói ra nữa nên ngày càng cô đậm đến không viết ra được gì khác ngoài bốn chữ chúc mừng sinh nhật để biết nhau còn sống.

   Nhưng năm ngoái hắn nhận được hồi âm nhiều hơn hai chữ “cảm ơn” bình thường đã nhiều năm từ khi em lấy chồng. Ngoảnh lại đã bạc đầu hay tin: con em đã học xong và có người đã cầu hôn nó. Hắn ngồi nhìn bức ảnh đôi trẻ đẹp và lãng mạn hơn đôi trẻ thiếu may mắn ngày nào để có tấm ảnh đẹp và lãng mạn như vậy khi tất cả đã thành cổ tích. Cổ tích của thời đại mơ ước được bên nhau nhỏ hơn mơ ước được bay xa, và đã đến lúc mơ ước được bay xa nhỏ hơn mơ ước được quay về… Hắn muốn viết hồi âm, “nhà xưa còn đó nhưng hai con người đã lạ xa với chính mình, em hiểu không?” Nhưng sao nhấn nút “gửi” khó khăn khi niềm hy vọng chết mất xác từ lâu lại hồi sinh như vi khuẩn cổ đại tái hiện theo biến đổi khí hậu, tình xưa cũng hồi sinh khi hấp hối về trời. Điều hắn sợ ngày xưa là người đi, đã đi. Điều hắn sợ bây giờ là người về, đã về. Hắn sợ đến mất trí cả năm nữa trôi qua, hắn vẫn không có lời giải cho việc không có tấm ảnh đẹp nên mối tình đôi mươi còn đó với thời gian hai mươi năm xa cách bên trời, rồi hai mươi năm nữa bên đời hiu quạnh vì quá gần, nhưng nghịch lý thêm hai mươi năm nữa cho người có bình an, Hắn tạ ơn trên với điều biết được khi giả sử có tấm ảnh mơ ước thời đôi mươi thì nay tay vẫn trong tay lúc bạc đầu hay kẻ ở người đi thêm lần nữa…

    Những chiếc lá vàng đầu mùa lá rụng đã lao chao ngoài sân vắng, vạn lá trên cây rồi sẽ về cội với đông phong. Những chiếc lá sớm xa cành là may hay rủi? Hắn chờ chiếc lá cuối cùng của những mùa thu đã hằn lên mắt ảnh. Tấm ảnh hắn vừa nhận được hồi âm hơn hai chữ “cảm ơn” là tấm ảnh biển vắng bên Hawaii. Núi lửa vẫn hừng hực, biển nhớ vẫn du dương ru đời vào quên lãng. Hắn nhặt lấy sợi tóc trắng bay về phía quê nhà vì không còn ai ở đó nên vạt nắng dạ cầu thôi đợi lục bình trôi khi tất cả đã cuốn theo chiều gió, theo chiếc lá vàng vừa rơi khỏi cây khế tiềm thức, cây sồi hiện hữu đã già ngoài sân nắng còn hung đã thu về…

 

Phan

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dù Mẹ ở tuổi nào đi nữa, ngọn lửa thương yêu trong mắt mẹ dành cho các con vẫn luôn tỏa sáng, không hề lụi tàn. Ngọn lửa đó theo chúng ta suốt cuộc đời, nâng đỡ chúng ta khi vấp ngã, giúp chúng ta thêm sức mạnh trong mọi giông bão của đời sống.. Xin đừng quên cầu nguyện cho những bà Mẹ được an toàn trước Coronavirus. Cũng xin gởi đến bông hồng tươi thắm nhất cho những bà mẹ trẻ đang làm việc ở “tuyến đầu”, không thể ôm hôn con mình mỗi tối.
Mẹ là từ gọi đầu tiên của loài người khi bắt đầu biết nói và cũng có lẽ cho mọi sinh vật trên trái đất, bởi hơn thế nữa mẹ là người đã đưa những sinh linh bé nhỏ đi vào cuộc đời mênh mông sau những tháng ngày ấp ủ trong lòng mình. Vì thế quả thật mẹ là ngôn từ vĩ đại nhất mà mọi sinh vật phải biết ơn và tự hào để có mặt trên cuộc đời này.
Đêm Rằm tháng Tư, chùa Châu Lâm lung linh trong muôn ngàn ngọn nến, hoa toả hương, mùi trầm thoang thoảng… tượng bổn sư ngồi an nhiên tự tại dưới cội bồ đề. Một cảnh tượng khiến nhiều người liên tưởng đến một thời pháp hội ở tịnh xá Kỳ Hoàn. Năm ấy, khi Thế Tôn còn tại thế, tịnh xá Kỳ Hoàn có pháp hội lớn. Vương tôn công tử và bá tánh nô nức cúng dường hương thơm và đèn. Có một bà lão ăn mày vét hết túi chỉ được đồng bạc, bà mua đèn và ít dầu đem đến cúng dường Phật. Khi đêm về khuya, các vị tăng đi tắt đèn, bao nhiêu ngọn đều tắt hết, duy chỉ có một ngọn đèn không sao tắt được, có vị vận thần thông mà cũng không tắt được, càng quạt thì càng sáng hơn. Các vị tăng bèn vào thưa với Phật, Phật bảo "Đó là cây đèn cúng dường của bà lão ăn mày, đó là ngọn tâm đăng, các ông không thể dập tắt, không có ai có thể làm tắt được."
Tôi đến tiển đưa Anh vào buổi chiều hoen nắng. Trời Chicago đang độ vào thu đượm màu vàng úa của lá và mây trời ẩm đục. Gió se lạnh. Giờ này anh đã an vị. Anh bình thản nằm trong quan tài sau bao nhiêu năm chiến đấu cho Tự do Dân chủ. Anh đã đi qua thời khói lửa như một người lính chiến trong màu áo trận. Anh đã bắt đầu thời hòa bình hơn 12 năm trong lao tù cải tạo của Chuyên Chính Vô Sản: từ khám lớn Chí Hòa đến Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Sơn La, Lý Bá Sơ, Nghệ Tĩnh…Không có vùng đất gian khổ nào của quê hương,của tổ quốc thiếu dấu chân anh. Không có thời điểm nào nguy biến cũng như vinh quang của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa mà anh không cùng anh em chia sẻ.
Bầu trời đen kịt, từng lằn chớp loé lên chằng chịt rạch nát không gian, những tia chớp xanh lè bén như lưỡi đao truỷ thủ mà laị nóng kinh hồn, hễ phóng đụng vật gì thì vật ấy cháy và nát ra. Sấm đì đùng động đến tận đường địa ngục, sấm bổ tan cả đá, đánh vỡ những gì cản đường của nó. Gió giật từng hồi, thổi tung tất cả những vật trên đường đi, cả đất trời như tận thế. Các vị thiên sợ sệt, khép thân không dám nói lời nào.
Qua khung kính cửa sổ phi cơ, Hạnh thấy những ánh đèn ly ty lùi lại trong bóng đêm. Khoảng không gian giữa những chấm sáng ly ty đó và chiếc Boeing đồ sộ này có lẽ xa lắm; nhưng Hạnh tưởng như nàng thấy rõ những con đường mòn len lõi trong rừng thông, từng làn sóng òa vỡ lao xao trên ghềnh đá và những bệ xi-măng vỡ vụn của một phi trường bỏ hoang. Phi trường đó mang tên Orote Point. Cái tên lạ, vô nghĩa như khoảng thời gian dài vô vị trong căn lều vải, trên những chiếc ghế bố nhà binh.
Khi em đưa cái Thẻ Kiểm Tra, mình chưa đọc tên đã biết ngay là em. Nhưng mình cứ làm tỉnh ngồi ôn lại những kỷ niệm ngày xưa. Em thì tình thiệt không biết mình. Nhớ hồi nhỏ hai đứa cũng quyến luyến nhau, dầu chưa tới mười tuổi. Em hay giận hờn
Điện thoại rung, tôi coi thấy Dũng gọi. Biết Dũng chưa bao giờ đi làm sở, sẽ gọi lại nhiều lần nếu không được trả lời nên tôi khẽ đứng dậy bước ra phòng họp gọi bấm phône hỏi: - Có chuyện gì không Dũng? - Chiều nay anh có rảnh không? Tới em. Em làm vài món, mình làm lai rai vài lon. Thứ hai nhà hàng em đóng cửa. - Được ông chủ nhà hàng nấu là nhất rồi. Chết cũng phải mò tới. Anh đang bận họp. Tí anh gọi lại em.
Giữa bất an, và lo buồn của mùa.... mắc dịch, vẫn có những điều làm người ta vui hơn, an tâm vì dù tình hình có xấu đến đâu đi nữa, vẫn có những tấm lòng. Chẳng hạn ở Severna Park, Maryland, từ vài tuần nay, mỗi ngày vào khoảng 11 giờ sáng ở một góc đường, trên một cái bàn màu trắng, có một số túi giấy màu nâu (lunch bags) để ngay ngắn trên bàn với tấm bảng viết tay khá lớn : "Phần ăn trưa miễn phí cho bất cứ ai cần" .
Ánh nắng chói chang như thiêu đốt nhức cả mắt, cháy cả da thịt, da dẻ ai cũng sạm đen thô ráp, đầu bù tóc rối, môi nút nẻ tứa máu, có vệt đã khô, có vệt mới còn tươi. Mọi người nằm rũ rượi như những tàu lá chuối bị hơ lửa, áo quần nhàu nát, dơ dáy, xốc xếch trông như những hình nhân.
Ôi, Sài Gòn của Ngà, cái Sài Gòn xưa với đủ mọi sắc màu tươi thắm lấm lem, cổ tích với dân dã, ngọt ngào lẫn tủi cực, cái Sài Gòn mà người ta nhất quyết bôi xóa, nó đã mọc lên ở đây, ở cái khe đất người bản xứ không chú ý, như những cây me con con đã nhờ gió thổi hạt bay tứ phương rồi lén lút trồi lên ở bất cứ rãnh đất trống nào, trong khi Sài Gòn ngày nay ở quê nhà lại như những con phố ngoại quốc lòe loẹt cửa hàng thời trang với những tòa nhà chọc trời che hết thổi bay hết các sắc mùi quê hương yêu dấu.
Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ".


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.