Hôm nay,  

Thiện và ác

18/10/202400:00:00(Xem: 3373)
 Thiện và ác 
 
Thiện là hành động, lời nói hay ý nghĩ tốt, thường mang lại an vui cho người, cho mình có khi là cho cả hai phía và cho tất cả mọi người xung quanh. Thí dụ việc là của cơ quan Médecin du Monde, luôn cứu giúp tài chánh cho những người nghèo khó, hoạn nạn ở khắp năm châu lục. Việc làm gần đây của thầy Minh Thiền ở Đức Hòa Dĩ An, thầy và các phật tử đi cứu trợ thiên tai bão lụt Yagi ở miền Bắc Việt Nam, ở Lào Cai, Yên Bái và các vùng, miền người thượng, miền cao do bão lũ gây ra. Họ đói, khổ, lạnh, mất người thân. Phái đoàn chùa Đức Hòa tới tận nơi, lội nước bì bõm ngang bụng mang tặng nạn nhân mì gói, áo quần, tiền và lời vấn an cho những người còn sống sót, đem lời cầu nguyện vãng sanh cho những người đã bị nước lũ cuốn đi, A Di Đà Phât. Người làm việc thiện luôn mang lại niềm vui hạnh phúc và dĩ nhiên được mọi người thương mến, thích gần gũi.
 
Trái với thiện, ác là những hành động, lời nói hay việc làm gây tai họa, khổ đau, buồn lòng người khác cho nên ác thường bị mọi người xa lánh, vì nó hay mang lại hậu quả khó lường. Thí dụ: vụ lường gạt bán vaccin covid giả hay kém chất lượng ở Việt Nam trong những năm đại dịch vừa qua, hay việc thế lực khủng bố Hamas tấn công sang Israël tháng 10-2023 bắn hỏa tiễn tàn sát người vô tội  và bắt nhiều con tin về giam giữ trong các địa đạo, cho họ chết lần chết mòn, rồi hậu quả là chiến tranh Trung Đông ngày càng ngày, càng dữ dội, đe dọa an nguy toàn thế giới. Việc ác làm mọi người ghê sợ và xa lánh.
 
Tuy được phân biệt rõ ràng như vậy, nhưng ranh giới giữa thiện và ác nhiều khi không rõ rệt và có lúc bị hiểu lầm.
 
Thí dụ: thầy nhiều khi quá nghiêm khắc, bị cho là ác, dù chủ ý của thầy là mong trò tiến bộ mau. Xưa có lúc nói là giáo đa tất oán, ngược lại, có những lời nói ngọt ngào xu nịnh cố ý dụ người đối diện làm hư việc, gọi là mật ngọt chết ruồi, do vậy, cái ranh giới thiện ác vẫn mập mờ. Muốn nhận xét đúng hơn, cần có trí tuệ để phân biệt tâm ý con người đó muốn gì khi hành động, khi phát ngôn hay suy tính một việc nào đó.
 
Cũng còn có những thiện ác trái chiều, như ở xã hội này, ở tôn giáo này, điều A là thiện. Sang một xứ sở khác, tôn giáo khác, việc A lại là không chấp nhận như việc sát sanh hay việc phá thai nhi, ở mỗi hoàn cảnh, ở mỗi đức tin, cũng có điểm dị biệt, thiện và ác có lúc rối tung, khó lần gỡ. Vậy có khi phải tùy hoàn cảnh, tùy lòng tin và tùy đạo hiếu sinh mà phán xét.
 
Ngày xưa, khi được quy y với bổn sư truyền giới, thầy Thích Thông Bửu, chúng tôi luôn dậy rằng người làm việc thiện nhiều như cát sông Hằng, mà người ta không bao giờ đếm xuể, người làm việc ác cũng nhiều như tinh tú trên bầu trời bao la mà con người mình không nhìn rõ, khi làm điều thiện mà sẵn sàng tha thứ cho những người khác, như đã từng nhiều lần tha thứ cho chính bản thân mình, thì cảnh giới thiên đàng, niết bàn, cực lạc chính là đang có nơi đây. Trong kinh pháp cú, có dậy rằng:
Lấy ân báo oán
Oán nghiệp chập chùng
Lấy ơn báo oán
Oán nghiệp tiêu tan.
 
Qua lời kinh điển, phật tử hiểu rõ là chủ đích của chánh pháp là muốn chuyển hóa nghiệp ác thành nghiệp thiện, thanh lọc tâm ý thanh tịnh chuyển đổi nước đục thành nước trong. Và không hề có ý tiêu diệt những kẻ ác.
 
Đạo là từ bi, luôn khuyên nhủ chúng sanh:
Tránh làm điều ác
Nên làm hạnh lành
Giữ tâm thanh tịnh
 
Muốn giữ được tâm ý thanh tịnh, mọi chúng sanh cần cố gắng vượt qua được sự phân biệt và cố chấp thiện, ác: không ca tụng việc thiện quá sức, không dè bỉu việc ác quá tệ, không phải là con người ngu si mà không biết thiện và ác đối nghịch. Nhưng vượt qua được sự cố chấp thiện ác, tức là mình thoát khỏi sự trói buộc của thiện nghiệp và ác nghiệp.
 
Người lương thiện là một bồ tát thuậnduyên nghịch duyên đó là những người hay nói hay làm những điều trái ý, đốp chát với ta, ngược với ta. Bảo là họ ác với ta? Có khi đúng mà có khi không, vì cái bản ngã đối chọi, căn cơ, tánh tình nghịch tặc, luôn thúc đẩy họ không đồng ý mọi điều với mọi người xung quanh. Kệ đi.
 
Thí dụ: Trong chùa, có tượng ngài hộ pháp và cũng còn có tượng ngài Tiêu Diên Đại Sĩ, như để đe dọa, nạt nộ và canh chừng.
 
Nói chung, vơi lòng từ bi và lòng kham nhẫn ba la mật, chư phật chư tổ luôn khuyên chúng sanh chấp nhận và biết ơn cả hai vị thuận duyên và nghịch duyên. Cả hai bên đều là những phương tiện giúp chúng sanh tiến bộ trên đường tu tập thường hằng, để luôn luôn đến gần chánh pháp và sống trong chánh pháp.
 
Trở lại chuyện kẻ ác và người thiện, đạo không tiêu diệt kẻ ác, chỉ dốc lòng hoán chuyển ác thành thiện, đó là chủ trương giáo dục bằng từ tâm, một tác giả phương tây, cũng có ý nghĩ gần như vậy:
 
« Ne cherchez pas à être sage à tout prix
La folie aussi est une sagesse
Et la sagesse, une folie
Fuyez les préceptes et les donneurs de leçons,
Faites ce que vous voulez
Et ce que vous pouvez
Rien n’est très important
Tout ce que nous aimons mourra
Et je mourrai moi aussi
La vie est belle.
                    Jean d’Ormesson
 
Trong cuộc đời hành đạo của đức phật, có một câu chuyện sinh động, được nhiều người biết đến, và một khi biết đến thì không thể nào quên, đó là câu chuyện đức phật cảm hóa tướng cướp Angulimala được ghi lại trong trung bộ kinh. Câu chuyện kể lại rằng, ở nước Kosala, do vua Pasénadi trị vì, có một tên cướp khét tiếng giết người tên là Anguli, là một tay thợ săn tàn bạo, giết người như giết thú, khiến cho dân làng rất lo sợ. Từ khi có tên cướp xuất hiện, khắp xóm làng, quốc độ người dân không còn sống yên ổn.
 
Một buổi sáng nọ, như thường lệ, đức phật đắp y, mang bình bát vào làng Savatthi khất thực. Sau khi khất thực và dùng bữa xong, ngài quay trở về và có ý đi trên con đường mà tên cướp hay qua lại. Người đi đường và những người chăn bò hết lòng ngăn cản ngài, nhưng đức phật vẫn giữ im lặng và ngài tiếp tục đi.
 
Thấy phật đang rong ruổi đi một mình, Anguli liền xuất hiện, y mừng rỡ và khởi tâm giết ngài. Y chỉ chờ có vậy và y lấy kiếm, cung, tên ra sẵn sàng và đi sau phật từ một khoảng không xa.
Thế rồi đức phât biết có Anguli theo sau, ngài dùng thần thông khiến cho Anguli dẫu cho có đi với tất cả tốc lực cũng không thể bắt kịp ngài, dù ngài vẫn đi bình thường.
 
Anguli chợt nghĩ, lạ thiệt, trước đây ta có thể đuổi kịp con voi, con ngựa, con nai và cả những chiếc xe đang chạy mau, mà sao bây giờ ta không đuổi kịp Sa Môn Cồ Đàm?
 
Anguli liền hô hoán lên:
Hãy dừng lại, Sa Môn!
Hãy dừng lại, Sa Môn!
 
Đức phật khoan thai đáp lời:
 
Này Anguli, ta đã ngừng rồi, và ngươi, ngươi hãy ngừng lại.
 
Tên cướp Anguli biết rõ Sa Môn Cồ Đàm không bao giờ nói dối điều gì. Vậy là sao? Hắn liền hỏi:
 
Sa Môn, ông đang đi mà nói ngừng rồi. Còn tôi ông biểu tôi ngừng đi là sao?
 
Đức Phật liền giải thích chậm và rõ ràng:
 
Với mọi chúng sanh, ta bỏ kiếm cung xuống.
 
Còn ngươi, ngươi không tự kiềm chế mà vẫn giết người, gây ra bao sự chết chóc đau đớn và hận thù, nên ta nói ta đã ngừng mà ngươi chưa ngừng… hãy ngừng lại! Ngừng lại!
 
Khi đức phật nói lời này, Anguli đứng lặng im, trầm tư suy nghĩ. Dường như lời nói nhẹ nhàng đánh động tâm thức tên cướp bạo tàn. Rồi Anguli từ tốn thưa:
 
Này thưa Samôn, tội lỗi của tôi thật tầy trời. Tôi có thể quay đầu bằng cách nào?
 
Thấy Anguli như đã chuyển tâm ý, ray rứt với việc làm của mình, đức phật liền mở ra một cơ hội cho người biết quay đầu sám hối. Ngài bảo quay đầu là thấy bờ, và sẽ nhận Anguli vào tăng đoàn để Anguli có thể làm mới lại cuộc đời, từ bỏ sự tàn ác, gột rửa tâm ý thanh sạch, từ đó đi dốc lòng làm các điều lành.
 
Nghe xong, Anguli liền quăng bỏ kiếm cung khí giới xuống vực sâu, quỳ gối đảnh lễ đức phật và xin xuất gia theo ngài.
 
Sau này, khi trở thành tu sĩ, Anguli đi khất thực, rất nhiều lần bị người quanh vùng đánh đập đau đớn nhưng ông hiểu rằng đó là những ác nghiệp phải trả. Đức phật trông thấy, ngài tự tay băng bó các vết đau cho Anguli. Ngài băng bó những vết thương thân xác và đồng thời băng bó luôn cả những vết thương trong lòng phạm nhân, chữa lành tâm linh cho kẻ phạm tội sát nhân đã biết quay đầu từ bỏ cái ác mà hướng thiện.
 
Giáo hóa được một tên sát nhân, từ bỏ ác nghiệp quay đầu vào bờ, ít ai tin, nhưng Sa Môn đã giáo hóa thành công Anguli. Điều làm cực kỳ khó, đến ngài phải dùng thần thông giáo hóa lúc đầu, sau, dùng oai lực tâm từ mà đánh động tâm thức phạm nhân.
 
Ít ai tin rằng một người cực ác có thể quay đầu 180° để thành người tốt. Sự thay đổi tận gốc của một kẻ cực ác thường là điều không tưởng, thế mà tên cướp ác độc Anguli đã làm được việc ấy, việc khó tin ấy.
 
Là nhờ vị thánh tăng rất từ bi cảm hóa, việc này khơi dậy lòng tự tin của tất cả mọi người.
 
Quay đầu là bờ, đáo bỉ ngạn, nếu chúng ta nỗ lực vượt bực, dùng nội lực làm lực đẩy để quay 180°, ta sẽ thấy bờ, hướng đến bờ và bơi vào bờ.
 
Nếu tự tin để vượt qua mặc cảm tội lỗi của mình.
 
Nếu tự tin để vượt qua sự nghi ngại của người ngoài ta.
 
Ta sẽ biết cách lội ngược dòng một cách ngoạn mục để về đích.
 
Không bao giờ là muộn đối với người biết quay đầu hướng thiện. Một tên cướp giết người còn biết quay đầu, huống chi người thường chúng ta, chúng ta đôi khi có lỗi lầm mà chưa tột cùng như Anguli! Chư phật khuyên chúng sanh nên thay đổi thái  độ với người khác qua câu chuyện Anguli. Các ngài khuyên phật tử có cái nhìn tích cực vào nỗ lực hoàn thiện là quyết tâm làm mới, làm lành lại của tất cả mọi người xung quanh và của cả chính ta.
 
Thái độ cố chấp khắc kỵ không đem lại lợi ích gì cho ai cả.
 
Một khi thay đổi nhận thức, hành vi nương đó mà thay đổi theo. Anguli làm được, thì mọi người khác đều cũng có thể.
 
Kinh Angulimala, trung bộ kinh 86, ghi lại rằng: sống trong hạnh phúc, tha thứ, chấp nhận là được giải thoát.
 
Thưa, đạo phật không chủ trương lấy thiện diệt ác. Đạo phật mong chuyển hóa ác thành thiện. Không ghét người ác vì không có người ác, chỉ có ý niệm ác là xấu.
 
Đạo chủ trương chuyển hóa ác nghiệp thành thiện nghiệp chuyển hóa ba nghiệp chưa thanh tịnh thành ba nghiệp thanh tịnh.
 
Đạo phật mong muốn đem lại niềm an lạc cho cá nhân, hạnh phúc cho gia đình và hòa bình cho xã hội.
 
Đạo phật, thưa đạo nói chung, mọi chúng sanh, mọi tín đồ, đều không muốn gây hận thù và không muốn có kẻ thù.
 
Chỉ có từ bi và trí tuệ để yêu thương và cảm thông.
 
Thưa, tất cả đều có sẵn trong cuộc đời này, và cùng với tấm lòng bác ái sát liền bên.
 
A Di Đà Phật
Paris mùa biến động
của chiến tranh ào ạt
Chúc Thanh
 

Ý kiến bạn đọc
28/10/202422:14:51
Khách
Tôi nghỉ câu " Lấy ÂN báo oán, Oán nghiệp chập chùng ,, nghe không đúng mà sẽ là " Lấy OÁN báo oán Oán nghiệp chập chùng .....xin có ý kiến như vậy....
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Năm đó, 1999, miền Trung Việt Nam nhất là ở Huế đang chịu trận thiên tai bão lụt lịch sử lớn nhât từ trước cho đến thời điểm bấy giò. Trong hội chợ tết, người Việt ở đây San Jose vui Xuân nhưng không quên đồng bào ở quê nhà. Từng đoàn Hướng Đạo Sinh Việt Nam được phân phối nhiệm vụ cầm những thùng lạc quyên để quyên tiền cứu trợ. Đang lang thang trong hội chợ, hai em bé trong đồng phục Hướng Đạo chận tôi lại. Một trai một gái. Bé gái cao hơn bé trai non nữa cái đầu, chửng chạc nói “Chú ơi, ủng hộ đồng bào bảo lụt đi chú”. Trọn một câu tiếng Việt, tuy phát âm không trọn vẹn, nhưng khá rõ ràng. Tôi nhìn hai em, nhất là bé gái đang thắt cái nơ trên đầu cái nơ mầu đỏ! Tôi bỗng thấy lòng bâng khuâng man mác.
Qua sự giới thiệu của phụ huynh học sinh, chiều nay tôi có thêm học trò mới. Tuy tin tưởng vào người giới thiệu, nhưng tôi cũng có sự dè dặt thường lệ. Đây không phải là lớp dạy thêm bình thường, mà là lớp dạy kèm “Anh văn chui” tại nhà. Nếu bị bắt “tại trận”, tôi có thể bị đuổi việc (nhẹ) hoặc cả vào trại tù "miệt thứ" dài hạn như chơi. Tuy rất nguy hiểm, nhưng được sự “bảo mật” của học trò lẫn phụ huynh và nhất là khoản tiền thù lao rất hậu. Lương giáo viên cấp 3 lúc đó (1978-1979) mỗi tháng $70 đồng cộng nhu yếu phẩm, thì mỗi học sinh "dạy thêm" tôi nhận được $80/ tháng. Chỉ cần ba học trò là mỗi tháng tôi có thêm đến $240 đồng. Đối với giáo viên lúc đó không phải nhỏ! Cà phê cà pháo, cơm hàng cháo chợ cuối tháng vẫn dư tiền bỏ ống. Phần nữa, học trò lớp “Anh văn chui” của tôi thông thường chỉ vài ba tháng là “ra đi”, nên cũng thường xuyên thay đổi.
Vừa đi vừa ngắm lá vàng vừa suy nghĩ chuyện cũ mà đến nhà Sarah hồi nào hổng hay. Sarah mở cửa với nụ cười thật tươi, Lệ thấy ngay phòng khách những giỏ táo đầy ắp, Sarah giải thích: - Hễ cuối hè đầu thu là nhà tớ hái toàn bộ các trái táo ngoài vườn sau, một phần để sên mứt, phần sấy khô, và phần làm bánh táo nướng.
Nhà thơ Trần Mộng Tú gửi tới tôi bài “Mùa Hạ Đom Đóm và Dế Mèng” khi tôi muốn cùng các ông bạn đồng lứa tuổi trở về những ngày xưa thật xưa. Chị Tú hình như cũng cùng tâm trạng với các bạn không còn trẻ của tôi: “Tháng sáu, tôi đến chơi với anh tôi ở Virginia. Cái nóng rịn mồ hôi trên thái dương, và khó ngủ lắm, buổi tối, tôi với anh ra ngồi ở bực thềm, nói chuyện. Tôi bỗng thấy thỉnh thoảng có những chớp nho nhỏ như lân tinh sáng lóe lên rồi lại biến mất trong bụi cây thấp trước mặt, hỏi anh tôi, cái gì thế? “Đom Đóm” Tôi lặng người đi một lúc như nghe thấy ai nhắc tên một người bạn thân cũ, nó làm tôi xúc động. Xúc động một cách rất mơ hồ, chẳng có nguyên nhân gì cả, chỉ là cái tên của một loại côn trùng bé tí được gọi lên. Cái tên nhắc nhở một quê hương xa lắc, một dĩ vãng nằm dưới tấm chăn phủ dầy lớp bụi thời gian. Trong bóng tối, tôi ngắm những cái chấm lửa nhỏ nhoi, lóe lên rồi tắt ngóm với trái tim nôn nao trong ngực. Có đến cả hơn bốn mươi năm tôi không được nhìn thấy những đố
Tọa lạc trong vùng ngoại ô Saint Maur, kề bên là bờ sông Marne hàng hiên ngang cửa nhà chú, chú đổ đầy đất đen đất vụn phải đi mua từng bao ở siêu thị bán cây trồng đất mua chú đổ vào lưng một cái bac ciment rộng lớn chạy ngang hàng hiên nhà. Trong bac chú trồng đầy hoa vàng, hoa nở thì lớn bằng đồng 50 xu, có năm cánh y hệt mai vàng ở Việt Nam, lá xanh non to bằng bàn tay con nít 5, 3 tuổi. Lá cũng rất thưa, hoa rất đẹp, vàng trong như mai ngày tết. Khi nắng gắt, mầu vàng có đậm thêm tí chút, sáng hé nở, trưa ấm nở rộ. Chiều chiều hoa cúp lại ngủ, ngày mai sáng sớm lại mãn khai, thân cây hoa chỉ cao lắm là đến đầu em bé 5, 6 tuổi. Nên hoa và cây không che vướng tầm nhìn từ trong nhà ra ngoài trời. Chú Phương yêu quý những cây hoa đó lắm. Vun tưới thường xuyên. Hỏi tên hoa đó là hoa gì? Chú trả lời ngon ơ: Đó là hoa vông vang của Đỗ Tốn, Chúng tôi không nhớ và cũng không biết ông Đỗ Tốn là ai
Trong sự bồi hồi xúc động, tay bắt mặt mừng, họ được gặp lại để trò chuyện với những người họ hàng thân yêu, những bạn bè xa gần thân thiết, nhìn thấy tận mắt những làng xưa chốn cũ, nhớ lại những kỷ niệm êm đẹp từ thuở thơ ấu cho đến ngày tạm thời phải rời bỏ những nơi này ra đi, ôi biết bao nhiêu nỗi xúc động trộn lẫn niềm sung sướng vô biên, nói làm sao cho hết được.
Những yếu tố lôi cuốn du khách đi du lịch đến một đất nước bao gồm cảnh đẹp thiên nhiên, văn hóa, thành phố lớn với những lối kiến trúc độc đáo, cuộc sống sôi động, ẩm thực, hoạt động phiêu lưu, kỳ thú ngoài trời, những buổi hòa nhạc, thể thao, nghệ thuật, hay lễ hội, địa điểm hành hương tôn giáo, phương tiện giao thông, vấn đề an ninh và bình yên; trong văn hóa, yếu tố con người chiếm một phần rất lớn khiến du khách khi rời xa, vẫn lưu luyến muốn trở lại lần nữa.
Nếu quý vị độc giả nào đã đọc câu chuyện tình cảm éo le, oan trái tràn đầy nước mắt: "Thằng Cu Tí và Thằng Cu Tèo" và nếu quy vị nào chưa đọc, thì xin hãy mở Google.com sẽ thấy đế tài này thuật lại 2 vị cao niên về thăm VN để hưởng tuần lễ trăng thanh gió mát quê nhà, sau nhiều năm phải rời bỏ quê hương để sống tha hương ngàn trùng xa cách nơi đất khách quê người đi tìm sự tự do. Nay mới có dịp được quay trở về thăm quê cha đất tổ, đồng thời còn được thưởng thức những món ăn đặc sản quê hương
Tôi lắng nghe, ngạc nhiên nhiều hơn thương cảm. Một người như Tầm mà bị lường gạt về lãnh vực 'xương máu' của mình. Tôi có thể hiểu và cảm thông an ủi trong mọi hoàn cảnh đau buồn, thất vọng của người thân chung quanh. Nhưng tôi lại rất vụng về khi phải đề cập đến mọi giao cảm đối với những con số. Tôi không có duyên phận và chung đường với nó. Nên tôi chỉ biết yên lặng, chờ đợi.
Lúc xưa thật xưa, người Việt Nam ta có tục lệ bầy cỗ Trung Thu vào dịp tết trăng tròn tháng 8 âm lịch. Cỗ này thường để dành cho trẻ con, vừa vui Trung Thu, vừa ăn bánh vừa ngắm trăng tròn, sáng tỏ. Thường cỗ này gồm phần lớn là bánh Trung Thu, bánh dẻo bánh nướng và rất nhiều thứ trái cây, trái cây chánh là bưởi, bưởi hồng đào ngọt và tròn xoay như một vầng trăng. Ăn bưởi xong, có thể sâu hột trái bưởi, phơi khô đi sem sém, và có thể đốt hạt bưởi từng sâu như đốt nến, đèn cầy.
Tường Vi sinh ra lớn lên từ miền “quê hương em nghèo lắm ai ơi, mùa đông thiếu áo hè thời thiếu cơm”. Trước 1975, ba Vi có chức vụ lớn trong quân đội, làm việc tại Đà Nẵng cuối tuần mới ra Huế. Gia đình Vi ở bên kia bờ Sông Hương nằm trên đường Nguyễn Công Trứ, khu nhà vườn rộng mênh mông có bến sông sau, trước ngõ trồng hàng loạt hoa Tường Vi. Mẹ rất thích loại hoa này, nên đặt tên Vi giống loài hoa. Vi có bốn chị em gồm hai em trai (Vinh, Lộc) và gái út (Tường Như), Vi là chị đầu đàng. Năm 13 tuổi vì thi rớt nên phải học trường tư thục Bồ Đề đến năm lớp tám, ba Vi từ Đà Nẵng dẫn theo người thanh niên về Huế giới thiệu tên Sơn, ra Huế học đại học luật khoa, sẽ dạy kèm chị em, làm gia sư ăn ở trong nhà luôn. Vì tò mò hỏi mạ
Sau này, mỗi khi muốn kết bạn với ai, tôi thường nghĩ về Bi, về lúc Bi cầm tay tôi cho con Nâu ngửi với sự trấn an vô tư của trẻ con thời khó khăn nhất. Chúng tôi không có đồ chơi, không có không gian lớp học năng khiếu, thi tài, không có những cuộc chạy đua đồ đạc mới hay chôm đồ đạc của nhau trong lớp học. Chúng tôi chỉ có bàn tay, con Nâu, đường đất đỏ về nhà và một bờ sông nguy hiểm.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.