Hôm nay,  

Lễ Tạ Ơn

28/10/202413:01:00(Xem: 5322)

 

 

minh hoa truyen DuongNghiemMaua-1
Minh họa Đinh Cường

 

Cuối tháng 10, sang đầu tháng 11, cổng nghĩa trang, gần nhà tôi, người ta bầy bán đầy những chậu hoa và những bó hoa tươi đẹp, hoa đủ mầu, đủ họ, hoa huệ lys trắng, đỏ, hồng. Hortensia đỏ và xanh lục, rotondes, fortisia jasmin vàng tươi, có cả hoa trạng nguyên rực rỡ, nhiều nhất là bông cúc, cúc đơn màu vàng, màu trắng thanh thoát; xum xuê lộng lẫy là những chậu cúc vàng óng crysanthèmes đậm màu sắc và bông lớn như tô múc canh, những chậu cúc đại đóa mãn khai rực rỡ này làm chúng ta nhớ tới tết nguyên đán ở Việt Nam, nhưng với người tây phương, hoa cúc đại đóa chỉ dùng đi thăm mộ và tặng nghĩa trang… không sao, nhập gia tùy tục, ở nhà hay ở nghĩa trang, hoa đại đóa vẫn lộng lẫy, sắc màu rậm rạp và trang trọng, pha nét phong phú sung mãn… nhất là màu vàng như vàng lá vàng diệp.

 

Đi tới nghĩa trang là thấy một rừng hoa chào mừng lễ các thánh, rồi lễ tạ ơn. Tạ ơn chúa, tạ ơn thượng đế… tạ ơn thượng đế, le dieu de tout puissant, bà bảo trợ người Pháp của tôi vẫn dậy tôi nói lời ấy ngay từ lúc đầu tiên tôi gặp bà. Tạ ơn chúa cho chúng ta đã gặp nhau. Bà Pamart hay nói câu đó.

 

Ở Việt Nam mà nhà ở gần nghĩa trang thì có lúc hơi sợ, sợ… sợ ma? Trái lại, ở đây, đất thánh là nghĩa trang rộng, đẹp, thoáng mát và uy nghi, nên không sợ gì cả. Mộ và cây thẳng hàng lối, lối đi lát gạch, có người giám trang thu vén coi sóc, quét dọn lá khô, lá vàng, hoa héo nên rất khang trang và sạch đẹp.

 

Tôi thích đi dạo nơi đây vì yên tĩnh và mát mẻ, vả lại lúc này gần ngày lễ các thánh Toussaint, gần luôn lễ tạ ơn, nên đường trong đất thánh đã lác đác có nhưng chậu hoa mới đủ mầu sắc tươi vui hơn mọi ngày khác trước đó. Cũng có người ra vô, thân nhân vô thăm và chăm sóc các phần mộ, làm nghĩa trang như bừng tỉnh dậy sau một năm dài ngủ yên miên mật.

 

Gia đình ruột thịt tôi không có ai an nghỉ nơi đây. Duy có ông bà bảo trợ người Tây an nghỉ nơi này đâu đã hơn hai chục năm có lẽ. Thời gian qua đi thật mau, mà vì bận công việc mưu sinh sinh hoạt hàng ngày, thoáng cái đã cả chục năm qua đi thật mau, cứ tưởng như mới hôm qua hôm kia đây thôi… Bà bảo trợ Pamart người cao to, tốt tướng và khuôn mặt phúc hậu với nụ cười luôn nở trên môi… bà to người mà không thô, khuôn mặt vui và vẫn có nét khoan thai và ung dung như một nữ hoàng, quả có thế, tên gọi con gái của bà là Reine de Saba; Pamart là họ của ông chồng.

 

Tôi cứ nhớ mãi như in ngày tôi và em trai tôi được bảo lãnh qua Tây, ông bà bảo trợ làm giấy tờ và ưu ái đón ba cha con tôi về ở cùng trong thành phố của họ, mẹ và hai em gái tôi còn kẹt lại bên nhà.

 

Tôi khép nép và rụt rè khi cha tôi đẩy tôi ra chào bà, may mà tôi còn nhớ lời mẹ tôi dặn trước khi ra đi là nếu không hiểu tiếng của người lạ, thì cứ chào họ bằng cách chắp hai tay ngang ngực và cúi đầu xuống, lễ phép như khi lạy phật, họ sẽ hiểu. Tôi đã làm vậy trước mặt bà và ô hay, là bà cũng chào lại tôi y như vậy! Rồi bà kéo và ôm tôi vào vòng tay bà và khẽ gọi tôi bằng tên tôi… rất đúng, có thể là bà biết và chuẩn bị từ lúc viết và điền tên tôi vào hồ sơ bảo lãnh! Bà kéo luôn thằng em lại gần và nói với chúng tôi điều gì đó rất thân mật mà cha tôi bảo là : bà nói “từ nay hai đứa con không có mẹ một bên, thì đã có bà, bà sẽ luôn ở cạnh các con.“

 

Bà tìm thuê nhà cho chúng tôi rất gần nhà bà, rồi bà qua lại sáng chiều mỗi ngày, săn sóc, giúp đỡ. Bà tập cho chúng tôi làm quen với lối sống mới, bà dậy chúng tôi những câu nói pháp văn sơ đẳng đầu tiên. Niềm vui mừng nhất của bà là bà tìm được ở nhà nguyện la paroisse rất gần nhà, có một ma sœur người việt, bà mời ngay sœur Chung, Anna Chung tới dậy chúng tôi học pháp văn suốt ngày, mỗi bài học trong sách Mauger I & II, sœur Chung giảng thoát ý sang tiếng việt, ngay sau đó, bà Pamart giảng lại bằng tiếng pháp, nên hai chị em tôi tiến bộ mau và vững, căn bản. Qua nửa năm sau, chúng tôi được nhận vào trường tiểu học trong vùng.

 

Chị em tôi có lúc cũng ham học mà quên lãng đi đôi lúc nỗi nhớ mẹ ray rứt… có lần em tôi nói: Tây nó lộn xộn quá… đi là bước đi, mà je dis lại là tôi nói.

 

Nhưng điều mà tôi cảm động đến phải rưng rưng nước mắt, là bà bảo trợ từng đi mua cả băng vệ sinh tháng và ưu ái chỉ dậy cách dùng. Ngoài ra bà còn rất năng nổ ráo riết lo hồ sơ bảo lãnh cho một nửa gia đình tôi ở Việt Nam sớm được sang đoàn tụ một nhà. Bà là thành viên của comité national de protection des enfants nên bà ráo riết xin và viện lý do chị em tôi còn quá nhỏ và rất cần có mẹ bên cạnh vì không ai thương yêu và thay thế được người mẹ. Mẹ tôi còn ở lại bên kia bờ đại dương và đang bị lupus led nặng. Bà cứ lo sợ mẹ con tôi không có ngày gặp lại, nên bà hăng hái đi vận động đủ mọi hội đoàn từ thiện xin giúp đỡ… nhờ đó kết quả đến khả quan, hai năm sau gia đình tôi được đoàn tụ, và người vui mừng đầu tiên cũng là bà Pamart. Bà cười rộn rã, mặt đỏ bừng cùng với nước mắt rơi lã chã… bà ôm tôi muốn nghẹt thở… oh… mon dieu… mon dieu de tout puissant! Cũng có một lần đó, cũng tức cười đến ngộp thở, là hôm cuối tuần ngẫu nhiên tôi qua thăm bà, tôi nhác thấy trong nhà vệ sinh có treo một bức ảnh Phật Quan Âm, ngay sau cánh cửa, đối diện chỗ ngồi. Tôi giựt mình thót ruột, tôi hỏi bà tại sao bà lại để dieu của tôi trong nhà vệ sinh? Bà đỏ mặt và dơ cả hai tay lên cao, đầu hàng:

 

Oh, tôi xin lỗi, lỗi tại tôi mọi đàng, pardon, excuses moi, tao không hề biết đó là bà dieu của con, tao treo bả ở đó tại vì thấy bả đẹp quá!

 

Và sau đó bà tháo gỡ mang ra ngoài phòng khách, tôi liền an ủi bà là khi vô tình thì không hề vô phép. Bà cũng như an ủi lại đối phương:

 

Này nhé, bà Quan Âm bên phật giáo thì cũng như bà Maria Ave bên thiên chúa giáo, họ là một vị thiêng liêng, mà tại là họ đi tới nhiều quốc độ khác nhau thì họ phải mang hình dáng và mặc áo quần có khác nhau, nhưng họ là một vị, một dieu, dieu de tout puissant, đã gọi là thượng đế toàn năng, thì lúc là bà Quan Âm, lúc là bà Maria điều đó đâu có khác biệt… đâu có sai trái…

 

Rồi những ngày sau đó, có khi bà lái xe vù vù đưa chúng tôi tới chùa Linh Sơn lạy phật, có chúa nhựt, bà dắt chúng tôi tới nhà thờ ma mère Miraculeuse đốt nến và khấn lễ…

 

Với thời gian, những năm sau đó, chúng tôi lớn lên, học hành tiến tới và thi cử thành đạt. Bà cả ông đều mừng rỡ, xoa tay vui sướng như chính là bà đã từng thi đậu vậy, ah, há… on a gagné!

 

Cũng cứ mỗi mùa thu, cuối tháng 10 sang tháng 11, bà rủ chúng tôi đi hái táo, lựa trái chín và ngon để làm tarte aux pommes. Bà dậy em trai tôi gọt táo, bà cầm dao và đưa lưỡi dao từ ngoài vào phía trong, trong khi tụi tôi làm ngược lại, đẩy dao từ trong ra ngoài theo chiều quả táo, bà quan sát và cười cười, thằng em không hiểu sao bà cười, gọt từ trong ra ngoài, ít nguy hiểm và không sợ lưỡi dao đâm vô người mình… bà vui vẻ chiều ý, để tao tập theo, mà tập theo thì làm quá chậm, thôi thì cứ mỗi người trở về với thói quen của mình.

 

Táo gọt xong, sắt từng lát mỏng, khuôn moule đã có sẵn, chỉ cần trải tấm bột bì gọi là pâte brisée vào khuôn, xếp táo nằm gọn và đều trong khuôn bột rồi đút lò nướng, khi táo bốc mùi thơm gần chín, bà lấy cái rây, rây rắc mỏng mỏng lên táo bột quế, beure, đường vani, rồi để lại vô lò 15 phút nữa cho bánh vàng và chín hẳn… vừa làm bánh, vừa ăn bánh, bà cũng vừa giải thích cho tụi tôi hiểu thế nào là lễ tạ ơn, bà giảng giải cặn kẽ khi ta mang ơn chúa, mang ơn thượng đế, mang ơn những người làm việc xung quanh ta, đã cho chúng ta cuộc sống đầy đủ, an lành, không chiến tranh, không thiên tai bão lũ… tháng cuối năm là tháng của lòng biết ơn và tạ ơn thanksgiving ở khắp mọi nơi. Lễ thanksgiving có con gà tây nướng chín vàng, vây quanh là rau, củ, quả potiron, ớt, trái lê nhiều màu, brocoli, hạt dẻ nhiều mầu nâu, đỏ, vàng cam, xậm mầu chín tới… màu của một năm làm việc kết quả tốt và bội thu. No lành. Bà vừa trân trọng nói về lễ tạ ơn, bà vừa luôn tay thu dọn bàn, ly, muỗng, tách… xong xuôi, bà lau tay bằng tấm yếm làm việc và tiện còn chút xíu thì giờ, bà hỏi tiếp:

 

Tôi giảng vậy, các con có hiểu không?

Oui, thưa là có lúc cũng hiểu lơ mơ.

 

Thế nên, c’est pourquoi, tôi nói các con phải học rành pháp văn, sau đó nên học anh văn, đức văn và nga văn… kể cả hoa văn… khi mình học nhiều sinh ngữ, mình đối chiếu từng chữ, từng câu cạnh nhau, thì không khó lắm đâu và dễ nhớ…

 

Này, các con ơi, mes enfants, khi xưa có người nói là đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, mà ngày nay, hình như, sinh ngữ là cái miệng cũng là cửa sổ của linh hồn… cứ nói vắn tắt là linh hồn là cái cửa sổ có hai cánh, đóng đóng mở mở đi, thì đôi mắt là một nửa cửa sổ, cái miệng và ngôn ngữ là một nửa kia của cửa sổ linh hồn, mes enfants, ok?

 

Ok quá đi chứ…

 

Cái ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy của bà Pamart Reine de Saba mãi tới giờ này, qua bao năm tháng, tôi vẫn thấy đúng và như mỗi ngày mỗi đúng hơn… cho tới lúc tôi học, nói và viết được nhiều ngoại ngữ khá chuẩn.

 

*

*        *

 

Buổi chiều ra cổng nghĩa trang, nắng thu vàng còn đậu lại ngang tường đất thánh, những cây hạt dẻ lá đỏ lá vàng vẫn như đứng đó để chào tạm biệt, mười cây vẫn đó không thiếu một cây.

 

Tôi quay xe ra đường lớn, đi ngang quai Jean Mermoz, tôi nhác thấy bóng cái xe màu xanh đậm của em trai. Thì ra đúng là em.

 

Rồi không hẹn mà hai chị em cùng dừng xe trước tabac, vừa chui ra, em tôi mau mắn hỏi:

Chị đi đâu đó, em đoán là vô thăm ông bà Pamart?

 

Tôi chợt sững sờ:

 

Đúng, chị vừa ở trong ấy ra, em đoán tài thiệt!

 

Tài giỏi gì đâu, số là đêm, trong giấc ngủ về sáng, ngủ mê mệt mà em nghe tiếng của bà, đúng là tiếng gọi của bà… “các con ơi, mes enfants, các con học bài xong chưa, chúng ta phải lo tổ chức lễ tạ ơn… tạ ơn hết thẩy mọi người, tạ ơn chúa đã cho chúng ta cuộc sống no đủ hôm nay. Mes enfantsallez-y!“

 

Em nhạy bén thiệt!

 

Nhạy bén thì không chắc, mà cứ tới mùa lễ tạ ơn, là em nhớ tới bà... nhớ những gì bà đã làm cho chúng ta… và làm cho cả mọi người khác nữa.

 

Tốt… mà em mang theo những gì lỉnh kỉnh thế?

 

Ồ, có gì đâu, chỉ có một hộp tarte aux pommes và  một thẻ nhang thơm… em thích thắp trước di ảnh ông bà một cây nhang, vì khói nhang, là đưa gởi, là kết nối… là lên cao.

 

Chúc Thanh
Paris, mùa lễ tạ ơn, 2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
Chiếc đồng hồ treo trên vách gõ nhịp nhàng hai tiếng thảnh thót giữa đêm khuya tĩnh mịch. Từ đàng xa, vài con chó trong xóm vắng gầm gừ sủa ma nghe thấy lành lạnh người. Tiếng gió đưa xào xạc mấy hàng dừa bụi chuối bên hè cộng thêm giọng ểnh ương oàng oạc tạo thành khúc nhạc êm ái đặc biệt hắt hiu của đồng quê miền Nam. Mùi hương hoa bưởi hoa cau cũng nương theo làn gió đêm len lén vào nhà nghe thoang thoảng nhẹ nhàng. Cho tới giờ này mà Phi vẫn chưa ngủ được, nó cứ nằm lăn qua trở lại với nỗi buồn nhức thịt nhức da, đau buốt tâm can vì sáng mai này nó phải chia tay với con Hồng Thắm, người chị láng giềng lớn hơn nó hai tuổi và cũng là người mà nó thân thiết nhất xóm, còn hơn cả con Mai em gái của nó nữa . Mà nói nào ngay thì Hồng Thắm có đi xa xôi cách trở gì cho cam, chị chỉ qua Mỹ Tho học mà từ nhà tụi nó ở ngay chợ Ngã Tư An Khánh-Bình Đại (Bến Tre) qua có cái Bắc Rạch Miễu là đã tới nơi rồi.
An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.
Thắp nhang tụng thời kinh công phu buổi sáng, tôi mỉm cười đón tia nắng mai đầu Xuân đang lạnh tràn lên chiếc áo tràng và thành tâm cầu nguyện “âm siêu dương thái, dịch bệnh tiêu trừ” cho đệ tử và chúng sanh không phân biệt. Tiếng chuông hồi hướng đưa tôi vào ngôi chùa Tự Tại để được sống thêm một giờ, một ngày hay bao lâu nữa cũng được trong thanh tịnh và an vui.
Để tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum . Bà Elizabeth Becker trong quyển sách "Khi chiến tranh đã chấm dứt , 1986" dẫn chứng lời của vị Đặc Ủy Tối cao Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc: 250.000 thuyền nhân chết trên biển cả; 929.600 người được tỵ nạn. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng.
Biển mùa hạ xanh biếc, màu xanh tưởng chừng như thông suốt từ đáy biển lên tận bầu trời, cái màu xanh mát mắt lạ thường, chỉ nhìn thôi đủ thấy khoan khoái, bao nhiêu bực dọc và phiền não như tan trong làn gió. Hàng ngàn người đang vùng vẫy trong làn nước xanh mát ấy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.