Hôm nay,  

Lễ Tạ Ơn

28/10/202413:01:00(Xem: 5319)

 

 

minh hoa truyen DuongNghiemMaua-1
Minh họa Đinh Cường

 

Cuối tháng 10, sang đầu tháng 11, cổng nghĩa trang, gần nhà tôi, người ta bầy bán đầy những chậu hoa và những bó hoa tươi đẹp, hoa đủ mầu, đủ họ, hoa huệ lys trắng, đỏ, hồng. Hortensia đỏ và xanh lục, rotondes, fortisia jasmin vàng tươi, có cả hoa trạng nguyên rực rỡ, nhiều nhất là bông cúc, cúc đơn màu vàng, màu trắng thanh thoát; xum xuê lộng lẫy là những chậu cúc vàng óng crysanthèmes đậm màu sắc và bông lớn như tô múc canh, những chậu cúc đại đóa mãn khai rực rỡ này làm chúng ta nhớ tới tết nguyên đán ở Việt Nam, nhưng với người tây phương, hoa cúc đại đóa chỉ dùng đi thăm mộ và tặng nghĩa trang… không sao, nhập gia tùy tục, ở nhà hay ở nghĩa trang, hoa đại đóa vẫn lộng lẫy, sắc màu rậm rạp và trang trọng, pha nét phong phú sung mãn… nhất là màu vàng như vàng lá vàng diệp.

 

Đi tới nghĩa trang là thấy một rừng hoa chào mừng lễ các thánh, rồi lễ tạ ơn. Tạ ơn chúa, tạ ơn thượng đế… tạ ơn thượng đế, le dieu de tout puissant, bà bảo trợ người Pháp của tôi vẫn dậy tôi nói lời ấy ngay từ lúc đầu tiên tôi gặp bà. Tạ ơn chúa cho chúng ta đã gặp nhau. Bà Pamart hay nói câu đó.

 

Ở Việt Nam mà nhà ở gần nghĩa trang thì có lúc hơi sợ, sợ… sợ ma? Trái lại, ở đây, đất thánh là nghĩa trang rộng, đẹp, thoáng mát và uy nghi, nên không sợ gì cả. Mộ và cây thẳng hàng lối, lối đi lát gạch, có người giám trang thu vén coi sóc, quét dọn lá khô, lá vàng, hoa héo nên rất khang trang và sạch đẹp.

 

Tôi thích đi dạo nơi đây vì yên tĩnh và mát mẻ, vả lại lúc này gần ngày lễ các thánh Toussaint, gần luôn lễ tạ ơn, nên đường trong đất thánh đã lác đác có nhưng chậu hoa mới đủ mầu sắc tươi vui hơn mọi ngày khác trước đó. Cũng có người ra vô, thân nhân vô thăm và chăm sóc các phần mộ, làm nghĩa trang như bừng tỉnh dậy sau một năm dài ngủ yên miên mật.

 

Gia đình ruột thịt tôi không có ai an nghỉ nơi đây. Duy có ông bà bảo trợ người Tây an nghỉ nơi này đâu đã hơn hai chục năm có lẽ. Thời gian qua đi thật mau, mà vì bận công việc mưu sinh sinh hoạt hàng ngày, thoáng cái đã cả chục năm qua đi thật mau, cứ tưởng như mới hôm qua hôm kia đây thôi… Bà bảo trợ Pamart người cao to, tốt tướng và khuôn mặt phúc hậu với nụ cười luôn nở trên môi… bà to người mà không thô, khuôn mặt vui và vẫn có nét khoan thai và ung dung như một nữ hoàng, quả có thế, tên gọi con gái của bà là Reine de Saba; Pamart là họ của ông chồng.

 

Tôi cứ nhớ mãi như in ngày tôi và em trai tôi được bảo lãnh qua Tây, ông bà bảo trợ làm giấy tờ và ưu ái đón ba cha con tôi về ở cùng trong thành phố của họ, mẹ và hai em gái tôi còn kẹt lại bên nhà.

 

Tôi khép nép và rụt rè khi cha tôi đẩy tôi ra chào bà, may mà tôi còn nhớ lời mẹ tôi dặn trước khi ra đi là nếu không hiểu tiếng của người lạ, thì cứ chào họ bằng cách chắp hai tay ngang ngực và cúi đầu xuống, lễ phép như khi lạy phật, họ sẽ hiểu. Tôi đã làm vậy trước mặt bà và ô hay, là bà cũng chào lại tôi y như vậy! Rồi bà kéo và ôm tôi vào vòng tay bà và khẽ gọi tôi bằng tên tôi… rất đúng, có thể là bà biết và chuẩn bị từ lúc viết và điền tên tôi vào hồ sơ bảo lãnh! Bà kéo luôn thằng em lại gần và nói với chúng tôi điều gì đó rất thân mật mà cha tôi bảo là : bà nói “từ nay hai đứa con không có mẹ một bên, thì đã có bà, bà sẽ luôn ở cạnh các con.“

 

Bà tìm thuê nhà cho chúng tôi rất gần nhà bà, rồi bà qua lại sáng chiều mỗi ngày, săn sóc, giúp đỡ. Bà tập cho chúng tôi làm quen với lối sống mới, bà dậy chúng tôi những câu nói pháp văn sơ đẳng đầu tiên. Niềm vui mừng nhất của bà là bà tìm được ở nhà nguyện la paroisse rất gần nhà, có một ma sœur người việt, bà mời ngay sœur Chung, Anna Chung tới dậy chúng tôi học pháp văn suốt ngày, mỗi bài học trong sách Mauger I & II, sœur Chung giảng thoát ý sang tiếng việt, ngay sau đó, bà Pamart giảng lại bằng tiếng pháp, nên hai chị em tôi tiến bộ mau và vững, căn bản. Qua nửa năm sau, chúng tôi được nhận vào trường tiểu học trong vùng.

 

Chị em tôi có lúc cũng ham học mà quên lãng đi đôi lúc nỗi nhớ mẹ ray rứt… có lần em tôi nói: Tây nó lộn xộn quá… đi là bước đi, mà je dis lại là tôi nói.

 

Nhưng điều mà tôi cảm động đến phải rưng rưng nước mắt, là bà bảo trợ từng đi mua cả băng vệ sinh tháng và ưu ái chỉ dậy cách dùng. Ngoài ra bà còn rất năng nổ ráo riết lo hồ sơ bảo lãnh cho một nửa gia đình tôi ở Việt Nam sớm được sang đoàn tụ một nhà. Bà là thành viên của comité national de protection des enfants nên bà ráo riết xin và viện lý do chị em tôi còn quá nhỏ và rất cần có mẹ bên cạnh vì không ai thương yêu và thay thế được người mẹ. Mẹ tôi còn ở lại bên kia bờ đại dương và đang bị lupus led nặng. Bà cứ lo sợ mẹ con tôi không có ngày gặp lại, nên bà hăng hái đi vận động đủ mọi hội đoàn từ thiện xin giúp đỡ… nhờ đó kết quả đến khả quan, hai năm sau gia đình tôi được đoàn tụ, và người vui mừng đầu tiên cũng là bà Pamart. Bà cười rộn rã, mặt đỏ bừng cùng với nước mắt rơi lã chã… bà ôm tôi muốn nghẹt thở… oh… mon dieu… mon dieu de tout puissant! Cũng có một lần đó, cũng tức cười đến ngộp thở, là hôm cuối tuần ngẫu nhiên tôi qua thăm bà, tôi nhác thấy trong nhà vệ sinh có treo một bức ảnh Phật Quan Âm, ngay sau cánh cửa, đối diện chỗ ngồi. Tôi giựt mình thót ruột, tôi hỏi bà tại sao bà lại để dieu của tôi trong nhà vệ sinh? Bà đỏ mặt và dơ cả hai tay lên cao, đầu hàng:

 

Oh, tôi xin lỗi, lỗi tại tôi mọi đàng, pardon, excuses moi, tao không hề biết đó là bà dieu của con, tao treo bả ở đó tại vì thấy bả đẹp quá!

 

Và sau đó bà tháo gỡ mang ra ngoài phòng khách, tôi liền an ủi bà là khi vô tình thì không hề vô phép. Bà cũng như an ủi lại đối phương:

 

Này nhé, bà Quan Âm bên phật giáo thì cũng như bà Maria Ave bên thiên chúa giáo, họ là một vị thiêng liêng, mà tại là họ đi tới nhiều quốc độ khác nhau thì họ phải mang hình dáng và mặc áo quần có khác nhau, nhưng họ là một vị, một dieu, dieu de tout puissant, đã gọi là thượng đế toàn năng, thì lúc là bà Quan Âm, lúc là bà Maria điều đó đâu có khác biệt… đâu có sai trái…

 

Rồi những ngày sau đó, có khi bà lái xe vù vù đưa chúng tôi tới chùa Linh Sơn lạy phật, có chúa nhựt, bà dắt chúng tôi tới nhà thờ ma mère Miraculeuse đốt nến và khấn lễ…

 

Với thời gian, những năm sau đó, chúng tôi lớn lên, học hành tiến tới và thi cử thành đạt. Bà cả ông đều mừng rỡ, xoa tay vui sướng như chính là bà đã từng thi đậu vậy, ah, há… on a gagné!

 

Cũng cứ mỗi mùa thu, cuối tháng 10 sang tháng 11, bà rủ chúng tôi đi hái táo, lựa trái chín và ngon để làm tarte aux pommes. Bà dậy em trai tôi gọt táo, bà cầm dao và đưa lưỡi dao từ ngoài vào phía trong, trong khi tụi tôi làm ngược lại, đẩy dao từ trong ra ngoài theo chiều quả táo, bà quan sát và cười cười, thằng em không hiểu sao bà cười, gọt từ trong ra ngoài, ít nguy hiểm và không sợ lưỡi dao đâm vô người mình… bà vui vẻ chiều ý, để tao tập theo, mà tập theo thì làm quá chậm, thôi thì cứ mỗi người trở về với thói quen của mình.

 

Táo gọt xong, sắt từng lát mỏng, khuôn moule đã có sẵn, chỉ cần trải tấm bột bì gọi là pâte brisée vào khuôn, xếp táo nằm gọn và đều trong khuôn bột rồi đút lò nướng, khi táo bốc mùi thơm gần chín, bà lấy cái rây, rây rắc mỏng mỏng lên táo bột quế, beure, đường vani, rồi để lại vô lò 15 phút nữa cho bánh vàng và chín hẳn… vừa làm bánh, vừa ăn bánh, bà cũng vừa giải thích cho tụi tôi hiểu thế nào là lễ tạ ơn, bà giảng giải cặn kẽ khi ta mang ơn chúa, mang ơn thượng đế, mang ơn những người làm việc xung quanh ta, đã cho chúng ta cuộc sống đầy đủ, an lành, không chiến tranh, không thiên tai bão lũ… tháng cuối năm là tháng của lòng biết ơn và tạ ơn thanksgiving ở khắp mọi nơi. Lễ thanksgiving có con gà tây nướng chín vàng, vây quanh là rau, củ, quả potiron, ớt, trái lê nhiều màu, brocoli, hạt dẻ nhiều mầu nâu, đỏ, vàng cam, xậm mầu chín tới… màu của một năm làm việc kết quả tốt và bội thu. No lành. Bà vừa trân trọng nói về lễ tạ ơn, bà vừa luôn tay thu dọn bàn, ly, muỗng, tách… xong xuôi, bà lau tay bằng tấm yếm làm việc và tiện còn chút xíu thì giờ, bà hỏi tiếp:

 

Tôi giảng vậy, các con có hiểu không?

Oui, thưa là có lúc cũng hiểu lơ mơ.

 

Thế nên, c’est pourquoi, tôi nói các con phải học rành pháp văn, sau đó nên học anh văn, đức văn và nga văn… kể cả hoa văn… khi mình học nhiều sinh ngữ, mình đối chiếu từng chữ, từng câu cạnh nhau, thì không khó lắm đâu và dễ nhớ…

 

Này, các con ơi, mes enfants, khi xưa có người nói là đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, mà ngày nay, hình như, sinh ngữ là cái miệng cũng là cửa sổ của linh hồn… cứ nói vắn tắt là linh hồn là cái cửa sổ có hai cánh, đóng đóng mở mở đi, thì đôi mắt là một nửa cửa sổ, cái miệng và ngôn ngữ là một nửa kia của cửa sổ linh hồn, mes enfants, ok?

 

Ok quá đi chứ…

 

Cái ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy của bà Pamart Reine de Saba mãi tới giờ này, qua bao năm tháng, tôi vẫn thấy đúng và như mỗi ngày mỗi đúng hơn… cho tới lúc tôi học, nói và viết được nhiều ngoại ngữ khá chuẩn.

 

*

*        *

 

Buổi chiều ra cổng nghĩa trang, nắng thu vàng còn đậu lại ngang tường đất thánh, những cây hạt dẻ lá đỏ lá vàng vẫn như đứng đó để chào tạm biệt, mười cây vẫn đó không thiếu một cây.

 

Tôi quay xe ra đường lớn, đi ngang quai Jean Mermoz, tôi nhác thấy bóng cái xe màu xanh đậm của em trai. Thì ra đúng là em.

 

Rồi không hẹn mà hai chị em cùng dừng xe trước tabac, vừa chui ra, em tôi mau mắn hỏi:

Chị đi đâu đó, em đoán là vô thăm ông bà Pamart?

 

Tôi chợt sững sờ:

 

Đúng, chị vừa ở trong ấy ra, em đoán tài thiệt!

 

Tài giỏi gì đâu, số là đêm, trong giấc ngủ về sáng, ngủ mê mệt mà em nghe tiếng của bà, đúng là tiếng gọi của bà… “các con ơi, mes enfants, các con học bài xong chưa, chúng ta phải lo tổ chức lễ tạ ơn… tạ ơn hết thẩy mọi người, tạ ơn chúa đã cho chúng ta cuộc sống no đủ hôm nay. Mes enfantsallez-y!“

 

Em nhạy bén thiệt!

 

Nhạy bén thì không chắc, mà cứ tới mùa lễ tạ ơn, là em nhớ tới bà... nhớ những gì bà đã làm cho chúng ta… và làm cho cả mọi người khác nữa.

 

Tốt… mà em mang theo những gì lỉnh kỉnh thế?

 

Ồ, có gì đâu, chỉ có một hộp tarte aux pommes và  một thẻ nhang thơm… em thích thắp trước di ảnh ông bà một cây nhang, vì khói nhang, là đưa gởi, là kết nối… là lên cao.

 

Chúc Thanh
Paris, mùa lễ tạ ơn, 2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Nhà văn Võ Hồng sinh ngày 2/12/1922 (khai sinh ghi 5/5/1921) tại làng Ngân Sơn, quận Tuy An, tỉnh Phú Yên. Ông sớm mồ côi mẹ. Thuở nhở Võ Hồng ng học trường làng, trường phủ Tuy An, trường tỉnh Sông Cầu, rồi trường Collège Quy Nhơn. Năm 1939 khi đang học Đệ Tam, ông cùng bạn bè viết bích báo và ông chọn một trong số những truyện đó gửi cho báo Tiểu Thuyết Thứ Bảy là tờ báo có nhiều độc giả nhất lúc đó tại Hà Nội.
Bầu trời cuối thu xanh thăm thẳm, cái màu xanh tưởng chừng như bầu trời thông đến tận cùng thế giới. Từng đám mây trắng bồng bềnh, lững lờ trôi, chúng thong dong tự bao đời đời nay giữa trời đất bao la, mặc cho lòng người khúc mắc, mặc cho thế sự điên đảo…
Vô cùng thương tiếc Trung Tá Phi Công Nguyễn Văn Triều
Anh bước vội vào trong toa xe điện. Một chút ăn năn vì anh về muộn. Anh lỡ quên, hôm nay ba mươi Tết! Anh tìm một chỗ ngồi kín đáo và cố thu người sao cho ấm. Anh vụt nhớ, bên nhà giờ này là mồng một Tết. Anh nhớ câu thơ ai viết:“ Đêm xuống bên ni, Ngày lên bên nớ”. Mắt anh đau đáu nhìn ra ngoài trời. Chicago tràn ngập tuyết.
Tuyết! Đấy là cái ám ảnh dai dẳng của tôi trong một thời gian rất dài. Nước tôi không có tuyết, và lẽ dĩ nhiên cũng không có nhiều món đặc trưng khác của Tây, của Tàu, của Châu Phi chẳng hạn, thế nhưng ước mơ của tôi được thấy tuyết tận mắt là tha thiết hơn cả.
Chúng tôi đinh ninh rằng chúng tôi là những người hồi cư sớm nhất, nhưng không phải. Về đến địa hạt Dương Xuân Thượng, chúng tôi biết rằng đã có nhiều gia đình về trước chúng tôi đến cả nửa tháng. Trên con đường núi đưa về chùa, cỏ mọc che cả lối đi. Chú Tâm Mãn đẫn đầu đoàn người hồi cư, có vẻ nóng nảy hơn hơn ai hết.
Nếu một ngày có hai mươi bốn giờ thì trong cơ thể em cũng nhốt đủ hai mươi bốn cái xương sườn. Một ngày kia, có thể gọi là giờ thứ hai mươi lăm, em gặp phải tai nạn làm gãy mất một cái xương sườn. Vào bệnh viện, chụp quang tuyến X và người ta ra tay giải phẫu, thò tay vào chỗ hóc hiểm để bắt tạm cho em một con vít bằng kim loại, hy vọng đôi ba tháng sau em thôi ca cẩm hát hò bản nhạc “chuyện một chiếc cầu đã gãy”.
Thằng bạn kể, khi nó vào thăm Má nó đang ở nursing home, má hỏi: "Mày vừa từ địa ngục về thăm tao đó hả?" Nó vừa dứt tiếng thì trời nổi gió gào, và tối om, và tôi với tên bạn lạc nhau.
Chiều nay, một buổi chiều cuối năm, tôi bắc ghế ra ngồi ngoài hiên, và tuy đây là một ngõ hẻm khi ngẩng lên tôi vẫn thấy được một vài vì sao lấp lánh. - “Những vì sao cuối năm!” – tôi nghĩ vậy. Đồng thời tôi nhận thấy có sự hiện diện của chòm sao thất tinh quen thuộc.
Đang đọc bản tin trên Yahoo News về việc Hoa Kỳ gửi quân tăng cường cho chiến trường Trung Đông, đến đoạn: “…At Fort Bragg, some 3,500 soldiers in the Army’s 82nd Airborne Division were ordered to the Middle East in one of the largest rapid deployments in decades…” bà Phượng thở dài, nhìn chăm chăm vào tấm ảnh của đoàn quân đang di chuyển đến phi cơ quân sự để bị đưa sang Trung Đông.
Có lẽ trong mỗi người Việt chúng ta, ký ức thời thơ ấu thường là những bức tranh sống động nhiều màu sắc, nhất là trong các ngày Tết. Nhắc đến thủa bé, nỗi nhớ trong tôi bỗng trở nên dịu dàng. Hình ảnh ngày nào tuy không rõ nét, nhưng tôi biết ấy là những kỷ niệm đẹp.
Tôi đến thăm anh vào một buổi chiều cuối năm, trong lúc anh ngồi đối diên với tác phẩm phù điêu“Măt Trời Tự Do”-một công trình anh hoàn thành một năm sau khi anh và gia đình đến Mỹ theo diên H.O. Sau khi mời tôi uống với anh một chén trà ấm, anh kể cho tôi nghe “môt góc đời” của anh: - Tôi là lính trận.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.