Hôm nay,  

Lễ Tạ Ơn

28/10/202413:01:00(Xem: 5334)

 

 

minh hoa truyen DuongNghiemMaua-1
Minh họa Đinh Cường

 

Cuối tháng 10, sang đầu tháng 11, cổng nghĩa trang, gần nhà tôi, người ta bầy bán đầy những chậu hoa và những bó hoa tươi đẹp, hoa đủ mầu, đủ họ, hoa huệ lys trắng, đỏ, hồng. Hortensia đỏ và xanh lục, rotondes, fortisia jasmin vàng tươi, có cả hoa trạng nguyên rực rỡ, nhiều nhất là bông cúc, cúc đơn màu vàng, màu trắng thanh thoát; xum xuê lộng lẫy là những chậu cúc vàng óng crysanthèmes đậm màu sắc và bông lớn như tô múc canh, những chậu cúc đại đóa mãn khai rực rỡ này làm chúng ta nhớ tới tết nguyên đán ở Việt Nam, nhưng với người tây phương, hoa cúc đại đóa chỉ dùng đi thăm mộ và tặng nghĩa trang… không sao, nhập gia tùy tục, ở nhà hay ở nghĩa trang, hoa đại đóa vẫn lộng lẫy, sắc màu rậm rạp và trang trọng, pha nét phong phú sung mãn… nhất là màu vàng như vàng lá vàng diệp.

 

Đi tới nghĩa trang là thấy một rừng hoa chào mừng lễ các thánh, rồi lễ tạ ơn. Tạ ơn chúa, tạ ơn thượng đế… tạ ơn thượng đế, le dieu de tout puissant, bà bảo trợ người Pháp của tôi vẫn dậy tôi nói lời ấy ngay từ lúc đầu tiên tôi gặp bà. Tạ ơn chúa cho chúng ta đã gặp nhau. Bà Pamart hay nói câu đó.

 

Ở Việt Nam mà nhà ở gần nghĩa trang thì có lúc hơi sợ, sợ… sợ ma? Trái lại, ở đây, đất thánh là nghĩa trang rộng, đẹp, thoáng mát và uy nghi, nên không sợ gì cả. Mộ và cây thẳng hàng lối, lối đi lát gạch, có người giám trang thu vén coi sóc, quét dọn lá khô, lá vàng, hoa héo nên rất khang trang và sạch đẹp.

 

Tôi thích đi dạo nơi đây vì yên tĩnh và mát mẻ, vả lại lúc này gần ngày lễ các thánh Toussaint, gần luôn lễ tạ ơn, nên đường trong đất thánh đã lác đác có nhưng chậu hoa mới đủ mầu sắc tươi vui hơn mọi ngày khác trước đó. Cũng có người ra vô, thân nhân vô thăm và chăm sóc các phần mộ, làm nghĩa trang như bừng tỉnh dậy sau một năm dài ngủ yên miên mật.

 

Gia đình ruột thịt tôi không có ai an nghỉ nơi đây. Duy có ông bà bảo trợ người Tây an nghỉ nơi này đâu đã hơn hai chục năm có lẽ. Thời gian qua đi thật mau, mà vì bận công việc mưu sinh sinh hoạt hàng ngày, thoáng cái đã cả chục năm qua đi thật mau, cứ tưởng như mới hôm qua hôm kia đây thôi… Bà bảo trợ Pamart người cao to, tốt tướng và khuôn mặt phúc hậu với nụ cười luôn nở trên môi… bà to người mà không thô, khuôn mặt vui và vẫn có nét khoan thai và ung dung như một nữ hoàng, quả có thế, tên gọi con gái của bà là Reine de Saba; Pamart là họ của ông chồng.

 

Tôi cứ nhớ mãi như in ngày tôi và em trai tôi được bảo lãnh qua Tây, ông bà bảo trợ làm giấy tờ và ưu ái đón ba cha con tôi về ở cùng trong thành phố của họ, mẹ và hai em gái tôi còn kẹt lại bên nhà.

 

Tôi khép nép và rụt rè khi cha tôi đẩy tôi ra chào bà, may mà tôi còn nhớ lời mẹ tôi dặn trước khi ra đi là nếu không hiểu tiếng của người lạ, thì cứ chào họ bằng cách chắp hai tay ngang ngực và cúi đầu xuống, lễ phép như khi lạy phật, họ sẽ hiểu. Tôi đã làm vậy trước mặt bà và ô hay, là bà cũng chào lại tôi y như vậy! Rồi bà kéo và ôm tôi vào vòng tay bà và khẽ gọi tôi bằng tên tôi… rất đúng, có thể là bà biết và chuẩn bị từ lúc viết và điền tên tôi vào hồ sơ bảo lãnh! Bà kéo luôn thằng em lại gần và nói với chúng tôi điều gì đó rất thân mật mà cha tôi bảo là : bà nói “từ nay hai đứa con không có mẹ một bên, thì đã có bà, bà sẽ luôn ở cạnh các con.“

 

Bà tìm thuê nhà cho chúng tôi rất gần nhà bà, rồi bà qua lại sáng chiều mỗi ngày, săn sóc, giúp đỡ. Bà tập cho chúng tôi làm quen với lối sống mới, bà dậy chúng tôi những câu nói pháp văn sơ đẳng đầu tiên. Niềm vui mừng nhất của bà là bà tìm được ở nhà nguyện la paroisse rất gần nhà, có một ma sœur người việt, bà mời ngay sœur Chung, Anna Chung tới dậy chúng tôi học pháp văn suốt ngày, mỗi bài học trong sách Mauger I & II, sœur Chung giảng thoát ý sang tiếng việt, ngay sau đó, bà Pamart giảng lại bằng tiếng pháp, nên hai chị em tôi tiến bộ mau và vững, căn bản. Qua nửa năm sau, chúng tôi được nhận vào trường tiểu học trong vùng.

 

Chị em tôi có lúc cũng ham học mà quên lãng đi đôi lúc nỗi nhớ mẹ ray rứt… có lần em tôi nói: Tây nó lộn xộn quá… đi là bước đi, mà je dis lại là tôi nói.

 

Nhưng điều mà tôi cảm động đến phải rưng rưng nước mắt, là bà bảo trợ từng đi mua cả băng vệ sinh tháng và ưu ái chỉ dậy cách dùng. Ngoài ra bà còn rất năng nổ ráo riết lo hồ sơ bảo lãnh cho một nửa gia đình tôi ở Việt Nam sớm được sang đoàn tụ một nhà. Bà là thành viên của comité national de protection des enfants nên bà ráo riết xin và viện lý do chị em tôi còn quá nhỏ và rất cần có mẹ bên cạnh vì không ai thương yêu và thay thế được người mẹ. Mẹ tôi còn ở lại bên kia bờ đại dương và đang bị lupus led nặng. Bà cứ lo sợ mẹ con tôi không có ngày gặp lại, nên bà hăng hái đi vận động đủ mọi hội đoàn từ thiện xin giúp đỡ… nhờ đó kết quả đến khả quan, hai năm sau gia đình tôi được đoàn tụ, và người vui mừng đầu tiên cũng là bà Pamart. Bà cười rộn rã, mặt đỏ bừng cùng với nước mắt rơi lã chã… bà ôm tôi muốn nghẹt thở… oh… mon dieu… mon dieu de tout puissant! Cũng có một lần đó, cũng tức cười đến ngộp thở, là hôm cuối tuần ngẫu nhiên tôi qua thăm bà, tôi nhác thấy trong nhà vệ sinh có treo một bức ảnh Phật Quan Âm, ngay sau cánh cửa, đối diện chỗ ngồi. Tôi giựt mình thót ruột, tôi hỏi bà tại sao bà lại để dieu của tôi trong nhà vệ sinh? Bà đỏ mặt và dơ cả hai tay lên cao, đầu hàng:

 

Oh, tôi xin lỗi, lỗi tại tôi mọi đàng, pardon, excuses moi, tao không hề biết đó là bà dieu của con, tao treo bả ở đó tại vì thấy bả đẹp quá!

 

Và sau đó bà tháo gỡ mang ra ngoài phòng khách, tôi liền an ủi bà là khi vô tình thì không hề vô phép. Bà cũng như an ủi lại đối phương:

 

Này nhé, bà Quan Âm bên phật giáo thì cũng như bà Maria Ave bên thiên chúa giáo, họ là một vị thiêng liêng, mà tại là họ đi tới nhiều quốc độ khác nhau thì họ phải mang hình dáng và mặc áo quần có khác nhau, nhưng họ là một vị, một dieu, dieu de tout puissant, đã gọi là thượng đế toàn năng, thì lúc là bà Quan Âm, lúc là bà Maria điều đó đâu có khác biệt… đâu có sai trái…

 

Rồi những ngày sau đó, có khi bà lái xe vù vù đưa chúng tôi tới chùa Linh Sơn lạy phật, có chúa nhựt, bà dắt chúng tôi tới nhà thờ ma mère Miraculeuse đốt nến và khấn lễ…

 

Với thời gian, những năm sau đó, chúng tôi lớn lên, học hành tiến tới và thi cử thành đạt. Bà cả ông đều mừng rỡ, xoa tay vui sướng như chính là bà đã từng thi đậu vậy, ah, há… on a gagné!

 

Cũng cứ mỗi mùa thu, cuối tháng 10 sang tháng 11, bà rủ chúng tôi đi hái táo, lựa trái chín và ngon để làm tarte aux pommes. Bà dậy em trai tôi gọt táo, bà cầm dao và đưa lưỡi dao từ ngoài vào phía trong, trong khi tụi tôi làm ngược lại, đẩy dao từ trong ra ngoài theo chiều quả táo, bà quan sát và cười cười, thằng em không hiểu sao bà cười, gọt từ trong ra ngoài, ít nguy hiểm và không sợ lưỡi dao đâm vô người mình… bà vui vẻ chiều ý, để tao tập theo, mà tập theo thì làm quá chậm, thôi thì cứ mỗi người trở về với thói quen của mình.

 

Táo gọt xong, sắt từng lát mỏng, khuôn moule đã có sẵn, chỉ cần trải tấm bột bì gọi là pâte brisée vào khuôn, xếp táo nằm gọn và đều trong khuôn bột rồi đút lò nướng, khi táo bốc mùi thơm gần chín, bà lấy cái rây, rây rắc mỏng mỏng lên táo bột quế, beure, đường vani, rồi để lại vô lò 15 phút nữa cho bánh vàng và chín hẳn… vừa làm bánh, vừa ăn bánh, bà cũng vừa giải thích cho tụi tôi hiểu thế nào là lễ tạ ơn, bà giảng giải cặn kẽ khi ta mang ơn chúa, mang ơn thượng đế, mang ơn những người làm việc xung quanh ta, đã cho chúng ta cuộc sống đầy đủ, an lành, không chiến tranh, không thiên tai bão lũ… tháng cuối năm là tháng của lòng biết ơn và tạ ơn thanksgiving ở khắp mọi nơi. Lễ thanksgiving có con gà tây nướng chín vàng, vây quanh là rau, củ, quả potiron, ớt, trái lê nhiều màu, brocoli, hạt dẻ nhiều mầu nâu, đỏ, vàng cam, xậm mầu chín tới… màu của một năm làm việc kết quả tốt và bội thu. No lành. Bà vừa trân trọng nói về lễ tạ ơn, bà vừa luôn tay thu dọn bàn, ly, muỗng, tách… xong xuôi, bà lau tay bằng tấm yếm làm việc và tiện còn chút xíu thì giờ, bà hỏi tiếp:

 

Tôi giảng vậy, các con có hiểu không?

Oui, thưa là có lúc cũng hiểu lơ mơ.

 

Thế nên, c’est pourquoi, tôi nói các con phải học rành pháp văn, sau đó nên học anh văn, đức văn và nga văn… kể cả hoa văn… khi mình học nhiều sinh ngữ, mình đối chiếu từng chữ, từng câu cạnh nhau, thì không khó lắm đâu và dễ nhớ…

 

Này, các con ơi, mes enfants, khi xưa có người nói là đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, mà ngày nay, hình như, sinh ngữ là cái miệng cũng là cửa sổ của linh hồn… cứ nói vắn tắt là linh hồn là cái cửa sổ có hai cánh, đóng đóng mở mở đi, thì đôi mắt là một nửa cửa sổ, cái miệng và ngôn ngữ là một nửa kia của cửa sổ linh hồn, mes enfants, ok?

 

Ok quá đi chứ…

 

Cái ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy của bà Pamart Reine de Saba mãi tới giờ này, qua bao năm tháng, tôi vẫn thấy đúng và như mỗi ngày mỗi đúng hơn… cho tới lúc tôi học, nói và viết được nhiều ngoại ngữ khá chuẩn.

 

*

*        *

 

Buổi chiều ra cổng nghĩa trang, nắng thu vàng còn đậu lại ngang tường đất thánh, những cây hạt dẻ lá đỏ lá vàng vẫn như đứng đó để chào tạm biệt, mười cây vẫn đó không thiếu một cây.

 

Tôi quay xe ra đường lớn, đi ngang quai Jean Mermoz, tôi nhác thấy bóng cái xe màu xanh đậm của em trai. Thì ra đúng là em.

 

Rồi không hẹn mà hai chị em cùng dừng xe trước tabac, vừa chui ra, em tôi mau mắn hỏi:

Chị đi đâu đó, em đoán là vô thăm ông bà Pamart?

 

Tôi chợt sững sờ:

 

Đúng, chị vừa ở trong ấy ra, em đoán tài thiệt!

 

Tài giỏi gì đâu, số là đêm, trong giấc ngủ về sáng, ngủ mê mệt mà em nghe tiếng của bà, đúng là tiếng gọi của bà… “các con ơi, mes enfants, các con học bài xong chưa, chúng ta phải lo tổ chức lễ tạ ơn… tạ ơn hết thẩy mọi người, tạ ơn chúa đã cho chúng ta cuộc sống no đủ hôm nay. Mes enfantsallez-y!“

 

Em nhạy bén thiệt!

 

Nhạy bén thì không chắc, mà cứ tới mùa lễ tạ ơn, là em nhớ tới bà... nhớ những gì bà đã làm cho chúng ta… và làm cho cả mọi người khác nữa.

 

Tốt… mà em mang theo những gì lỉnh kỉnh thế?

 

Ồ, có gì đâu, chỉ có một hộp tarte aux pommes và  một thẻ nhang thơm… em thích thắp trước di ảnh ông bà một cây nhang, vì khói nhang, là đưa gởi, là kết nối… là lên cao.

 

Chúc Thanh
Paris, mùa lễ tạ ơn, 2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
Cuối cùng, vợ tôi cũng đồng ý một cách vui vẻ cho tôi lấy vợ bé. Một hành động vượt ra ngoài quan niệm ái tình nghiêm túc của bà. Vợ bé tên Hà, do vợ lớn đặt. Tên khai sinh của Hà là Đỗ thị 451. Vợ lớn nói, số này hên, cộng lại là 10. Hà lai Ái Nhỉ Lan. Ở lứa tuổi gần ba mươi, chưa lấy chồng, không có con, một thân hình phước đức cho bất kỳ người đàn ông nào, sáu mươi bảy tuổi, như tôi.
Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin-Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một "bờ thành" nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do...
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều. Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)
Năm Giáp Ngọ 1954 có thể gọi là năm đại diện cho tuổi thơ tôi. Chỉ trong một năm 1954 đã có quá nhiều biến cố xảy ra dồn dập trước mắt chú bé mười hai tuổi mà suốt trong đời chưa có thời điểm nào đặc biệt như vậy...
Dẫn nhập: chuyện này được viết khi sắp tròn nửa thế kỷ Sài gòn bị mất tên. Qua một phần đời của một vị Thầy dạy Toán, gắn liền với nhiều thăng trầm của lịch sử từ Việt Nam đến Mỹ, cùng nhìn lại những vết chân xưa với hy vọng các thế hệ kế tiếp học hỏi được nhiều điều để đưa được đất nước trở về vị trí "minh châu trời Đông"
Cây Phượng Vĩ Hoa Vàng có tên khoa học là Delonix regia var plavida thuộc họ Fabaceae có nguồn gốc từ Myanmar được sư trụ trì chùa Huyền Không Sơn Thượng mang về Việt Nam, đầu tiên được trồng ở Huế một số cây dọc theo con đường ở phố Ngô Quyền, ngã ba Phan Bội Châu, Lê Lợi... đã thu hút nhiều du khách đến ngắm cảnh và chụp hình. Hoa phượng vĩ vàng có tuổi đời lên đến 5, 6 chục năm, cây nhỏ hơn hoa phượng đỏ, ít lá và hoa có màu vàng tươi bắt mắt, thường nở từ tháng giêng, tháng hai và nở rộ và khoảng cuối tháng ba, đầu tháng tư, nên còn gọi là loài hoa “ chào mùa hè”. Hoa nở rụng tạo thành một “thảm hoa vàng” trên đường đi, gây nhiều ấn tượng cho những ai đi dạo trên những con đường này. Năm 2005, Công ty công viên cây xanh Sài Gòn mang về trồng một số nơi ở Sài Gòn nhưng chưa được nhiều.
Mùa hè quê tôi không có hoa phượng rơi, mà bắt đầu một mùa nước nổi. Nước lên cao, mênh mông ngập khắp cánh đồng và cả khoảng sân nhà mẹ. Những cơn gió trở mùa mát dịu dàng bao đêm dài mộng tưởng. Ngày sẽ lên, đời ập tới cho dù chúng ta có chờ đợi hay lãng quên. Mẹ tôi báo tin, “Tháng tới là đám cưới con Lệ. Cũng mừng cho con nhỏ, gia đình chồng giàu có. Chỉ tội là nó phải theo chồng đi xa”. Tôi nghe tin, thấy lòng trống trải vô cùng. Một khoảng trống mênh mông, cứ tràn ngập mỗi ngày một lớn. Tôi biết mình đã yêu chị thiết tha...
Trước giờ thi, một cô học trò láu táu, “Thầy bao nhiêu tuổi hả thày?” Câu hỏi từ cặp môi đỏ chót và cái nháy mắt từ cặp lông mi lướt thướt làm cả lớp cười ồ. Hồi ấy tôi vừa mới ba mươi, và tôi là ông thầy giáo bị hỏi câu ấy ngay trong lớp học, cái lớp học có quá nửa số học sinh là nữ, và tôi bị hỏi khi đang giúp học trò ôn bài thi cuối khóa. Quá bất ngờ, ông thầy sựng lại một giây, rồi thong thả trả lời, “Cái này đâu có trong đề thi.” “Em hỏi là tại vì hồi đêm em nằm chiêm bao thấy thày,” cặp môi cong chậm rãi giải thích. Cả lớp chăm chú lắng nghe. Cô học trò gật gù như chờ cho mọi người theo kịp rồi mới tiếp, “Vì vậy em cần biết tuổi thày để mua số đề.”
Năm 2015, Milana đã ba mươi tuổi, đang làm việc trong một công ty Network ở California. Mẹ nàng tỏ ra lo lắng tại sao tuổi này mà không chịu lấy chồng, mà cũng ít thấy có bạn trai; bà e rằng phụ nữ sau ba mươi lăm tuổi khó sanh nở. Nhưng nàng có lý do riêng không nói được với ai...
Cái tên Pulau Bidong nghe rất đỗi thân thương và gần gũi với nhiều người vượt biển Việt Nam lánh nạn cộng sản từ sau năm 1975 và cũng là biểu tượng của ngưỡng cửa Tự Do mà nhiều người mơ ước. Mảnh đất nhỏ bé này là một hải đảo, cách xa tiểu bang Terengganu của Malaysia khoảng một giờ đi thuyền. Nếu có cơ hội, những người thuyền nhân năm xưa nên trở lại, chỉ một lần thôi, thực hiện một cuộc hành hương trở về vùng đất Thánh. Dù không phải là một cựu thuyền nhân tạm dung nơi hải đảo hoang vu này, đôi chân lạ lẫm không quen của tôi đã đặt chân lên Pulau Bidong trong một chuyến du lịch ngẫu hứng, cho ký ức quãng đời tỵ nạn ngày xưa lần lượt trở về trong tôi.
Tả sao cho hết cảnh cổng lớn đồ sộ. Từ chân lên đến đỉnh, tràn ngập mặt nạ treo kín mít. Đủ loại mặt nạ tượng trưng cho thiện ác, xấu đẹp, đúng sai. Có cả mặt nạ Chúa, Phật, thánh thần, hiền nhân, ác tặc, vân vân. Dọc bên dưới là những thùng lớn chứa vô số mặt nạ theo kiểu treo bên trên. Người nào đi vào, tự động lựa cho mình một loại mặt nạ hợp với tính tình, mang lên, rồi mới được tiếp tục đi. Mỗi người có hai mặt nạ, một thật đã thói quen thành giả và một giả thật chồng lên.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.