Hôm nay,  

Lễ Tạ Ơn

28/10/202413:01:00(Xem: 5332)

 

 

minh hoa truyen DuongNghiemMaua-1
Minh họa Đinh Cường

 

Cuối tháng 10, sang đầu tháng 11, cổng nghĩa trang, gần nhà tôi, người ta bầy bán đầy những chậu hoa và những bó hoa tươi đẹp, hoa đủ mầu, đủ họ, hoa huệ lys trắng, đỏ, hồng. Hortensia đỏ và xanh lục, rotondes, fortisia jasmin vàng tươi, có cả hoa trạng nguyên rực rỡ, nhiều nhất là bông cúc, cúc đơn màu vàng, màu trắng thanh thoát; xum xuê lộng lẫy là những chậu cúc vàng óng crysanthèmes đậm màu sắc và bông lớn như tô múc canh, những chậu cúc đại đóa mãn khai rực rỡ này làm chúng ta nhớ tới tết nguyên đán ở Việt Nam, nhưng với người tây phương, hoa cúc đại đóa chỉ dùng đi thăm mộ và tặng nghĩa trang… không sao, nhập gia tùy tục, ở nhà hay ở nghĩa trang, hoa đại đóa vẫn lộng lẫy, sắc màu rậm rạp và trang trọng, pha nét phong phú sung mãn… nhất là màu vàng như vàng lá vàng diệp.

 

Đi tới nghĩa trang là thấy một rừng hoa chào mừng lễ các thánh, rồi lễ tạ ơn. Tạ ơn chúa, tạ ơn thượng đế… tạ ơn thượng đế, le dieu de tout puissant, bà bảo trợ người Pháp của tôi vẫn dậy tôi nói lời ấy ngay từ lúc đầu tiên tôi gặp bà. Tạ ơn chúa cho chúng ta đã gặp nhau. Bà Pamart hay nói câu đó.

 

Ở Việt Nam mà nhà ở gần nghĩa trang thì có lúc hơi sợ, sợ… sợ ma? Trái lại, ở đây, đất thánh là nghĩa trang rộng, đẹp, thoáng mát và uy nghi, nên không sợ gì cả. Mộ và cây thẳng hàng lối, lối đi lát gạch, có người giám trang thu vén coi sóc, quét dọn lá khô, lá vàng, hoa héo nên rất khang trang và sạch đẹp.

 

Tôi thích đi dạo nơi đây vì yên tĩnh và mát mẻ, vả lại lúc này gần ngày lễ các thánh Toussaint, gần luôn lễ tạ ơn, nên đường trong đất thánh đã lác đác có nhưng chậu hoa mới đủ mầu sắc tươi vui hơn mọi ngày khác trước đó. Cũng có người ra vô, thân nhân vô thăm và chăm sóc các phần mộ, làm nghĩa trang như bừng tỉnh dậy sau một năm dài ngủ yên miên mật.

 

Gia đình ruột thịt tôi không có ai an nghỉ nơi đây. Duy có ông bà bảo trợ người Tây an nghỉ nơi này đâu đã hơn hai chục năm có lẽ. Thời gian qua đi thật mau, mà vì bận công việc mưu sinh sinh hoạt hàng ngày, thoáng cái đã cả chục năm qua đi thật mau, cứ tưởng như mới hôm qua hôm kia đây thôi… Bà bảo trợ Pamart người cao to, tốt tướng và khuôn mặt phúc hậu với nụ cười luôn nở trên môi… bà to người mà không thô, khuôn mặt vui và vẫn có nét khoan thai và ung dung như một nữ hoàng, quả có thế, tên gọi con gái của bà là Reine de Saba; Pamart là họ của ông chồng.

 

Tôi cứ nhớ mãi như in ngày tôi và em trai tôi được bảo lãnh qua Tây, ông bà bảo trợ làm giấy tờ và ưu ái đón ba cha con tôi về ở cùng trong thành phố của họ, mẹ và hai em gái tôi còn kẹt lại bên nhà.

 

Tôi khép nép và rụt rè khi cha tôi đẩy tôi ra chào bà, may mà tôi còn nhớ lời mẹ tôi dặn trước khi ra đi là nếu không hiểu tiếng của người lạ, thì cứ chào họ bằng cách chắp hai tay ngang ngực và cúi đầu xuống, lễ phép như khi lạy phật, họ sẽ hiểu. Tôi đã làm vậy trước mặt bà và ô hay, là bà cũng chào lại tôi y như vậy! Rồi bà kéo và ôm tôi vào vòng tay bà và khẽ gọi tôi bằng tên tôi… rất đúng, có thể là bà biết và chuẩn bị từ lúc viết và điền tên tôi vào hồ sơ bảo lãnh! Bà kéo luôn thằng em lại gần và nói với chúng tôi điều gì đó rất thân mật mà cha tôi bảo là : bà nói “từ nay hai đứa con không có mẹ một bên, thì đã có bà, bà sẽ luôn ở cạnh các con.“

 

Bà tìm thuê nhà cho chúng tôi rất gần nhà bà, rồi bà qua lại sáng chiều mỗi ngày, săn sóc, giúp đỡ. Bà tập cho chúng tôi làm quen với lối sống mới, bà dậy chúng tôi những câu nói pháp văn sơ đẳng đầu tiên. Niềm vui mừng nhất của bà là bà tìm được ở nhà nguyện la paroisse rất gần nhà, có một ma sœur người việt, bà mời ngay sœur Chung, Anna Chung tới dậy chúng tôi học pháp văn suốt ngày, mỗi bài học trong sách Mauger I & II, sœur Chung giảng thoát ý sang tiếng việt, ngay sau đó, bà Pamart giảng lại bằng tiếng pháp, nên hai chị em tôi tiến bộ mau và vững, căn bản. Qua nửa năm sau, chúng tôi được nhận vào trường tiểu học trong vùng.

 

Chị em tôi có lúc cũng ham học mà quên lãng đi đôi lúc nỗi nhớ mẹ ray rứt… có lần em tôi nói: Tây nó lộn xộn quá… đi là bước đi, mà je dis lại là tôi nói.

 

Nhưng điều mà tôi cảm động đến phải rưng rưng nước mắt, là bà bảo trợ từng đi mua cả băng vệ sinh tháng và ưu ái chỉ dậy cách dùng. Ngoài ra bà còn rất năng nổ ráo riết lo hồ sơ bảo lãnh cho một nửa gia đình tôi ở Việt Nam sớm được sang đoàn tụ một nhà. Bà là thành viên của comité national de protection des enfants nên bà ráo riết xin và viện lý do chị em tôi còn quá nhỏ và rất cần có mẹ bên cạnh vì không ai thương yêu và thay thế được người mẹ. Mẹ tôi còn ở lại bên kia bờ đại dương và đang bị lupus led nặng. Bà cứ lo sợ mẹ con tôi không có ngày gặp lại, nên bà hăng hái đi vận động đủ mọi hội đoàn từ thiện xin giúp đỡ… nhờ đó kết quả đến khả quan, hai năm sau gia đình tôi được đoàn tụ, và người vui mừng đầu tiên cũng là bà Pamart. Bà cười rộn rã, mặt đỏ bừng cùng với nước mắt rơi lã chã… bà ôm tôi muốn nghẹt thở… oh… mon dieu… mon dieu de tout puissant! Cũng có một lần đó, cũng tức cười đến ngộp thở, là hôm cuối tuần ngẫu nhiên tôi qua thăm bà, tôi nhác thấy trong nhà vệ sinh có treo một bức ảnh Phật Quan Âm, ngay sau cánh cửa, đối diện chỗ ngồi. Tôi giựt mình thót ruột, tôi hỏi bà tại sao bà lại để dieu của tôi trong nhà vệ sinh? Bà đỏ mặt và dơ cả hai tay lên cao, đầu hàng:

 

Oh, tôi xin lỗi, lỗi tại tôi mọi đàng, pardon, excuses moi, tao không hề biết đó là bà dieu của con, tao treo bả ở đó tại vì thấy bả đẹp quá!

 

Và sau đó bà tháo gỡ mang ra ngoài phòng khách, tôi liền an ủi bà là khi vô tình thì không hề vô phép. Bà cũng như an ủi lại đối phương:

 

Này nhé, bà Quan Âm bên phật giáo thì cũng như bà Maria Ave bên thiên chúa giáo, họ là một vị thiêng liêng, mà tại là họ đi tới nhiều quốc độ khác nhau thì họ phải mang hình dáng và mặc áo quần có khác nhau, nhưng họ là một vị, một dieu, dieu de tout puissant, đã gọi là thượng đế toàn năng, thì lúc là bà Quan Âm, lúc là bà Maria điều đó đâu có khác biệt… đâu có sai trái…

 

Rồi những ngày sau đó, có khi bà lái xe vù vù đưa chúng tôi tới chùa Linh Sơn lạy phật, có chúa nhựt, bà dắt chúng tôi tới nhà thờ ma mère Miraculeuse đốt nến và khấn lễ…

 

Với thời gian, những năm sau đó, chúng tôi lớn lên, học hành tiến tới và thi cử thành đạt. Bà cả ông đều mừng rỡ, xoa tay vui sướng như chính là bà đã từng thi đậu vậy, ah, há… on a gagné!

 

Cũng cứ mỗi mùa thu, cuối tháng 10 sang tháng 11, bà rủ chúng tôi đi hái táo, lựa trái chín và ngon để làm tarte aux pommes. Bà dậy em trai tôi gọt táo, bà cầm dao và đưa lưỡi dao từ ngoài vào phía trong, trong khi tụi tôi làm ngược lại, đẩy dao từ trong ra ngoài theo chiều quả táo, bà quan sát và cười cười, thằng em không hiểu sao bà cười, gọt từ trong ra ngoài, ít nguy hiểm và không sợ lưỡi dao đâm vô người mình… bà vui vẻ chiều ý, để tao tập theo, mà tập theo thì làm quá chậm, thôi thì cứ mỗi người trở về với thói quen của mình.

 

Táo gọt xong, sắt từng lát mỏng, khuôn moule đã có sẵn, chỉ cần trải tấm bột bì gọi là pâte brisée vào khuôn, xếp táo nằm gọn và đều trong khuôn bột rồi đút lò nướng, khi táo bốc mùi thơm gần chín, bà lấy cái rây, rây rắc mỏng mỏng lên táo bột quế, beure, đường vani, rồi để lại vô lò 15 phút nữa cho bánh vàng và chín hẳn… vừa làm bánh, vừa ăn bánh, bà cũng vừa giải thích cho tụi tôi hiểu thế nào là lễ tạ ơn, bà giảng giải cặn kẽ khi ta mang ơn chúa, mang ơn thượng đế, mang ơn những người làm việc xung quanh ta, đã cho chúng ta cuộc sống đầy đủ, an lành, không chiến tranh, không thiên tai bão lũ… tháng cuối năm là tháng của lòng biết ơn và tạ ơn thanksgiving ở khắp mọi nơi. Lễ thanksgiving có con gà tây nướng chín vàng, vây quanh là rau, củ, quả potiron, ớt, trái lê nhiều màu, brocoli, hạt dẻ nhiều mầu nâu, đỏ, vàng cam, xậm mầu chín tới… màu của một năm làm việc kết quả tốt và bội thu. No lành. Bà vừa trân trọng nói về lễ tạ ơn, bà vừa luôn tay thu dọn bàn, ly, muỗng, tách… xong xuôi, bà lau tay bằng tấm yếm làm việc và tiện còn chút xíu thì giờ, bà hỏi tiếp:

 

Tôi giảng vậy, các con có hiểu không?

Oui, thưa là có lúc cũng hiểu lơ mơ.

 

Thế nên, c’est pourquoi, tôi nói các con phải học rành pháp văn, sau đó nên học anh văn, đức văn và nga văn… kể cả hoa văn… khi mình học nhiều sinh ngữ, mình đối chiếu từng chữ, từng câu cạnh nhau, thì không khó lắm đâu và dễ nhớ…

 

Này, các con ơi, mes enfants, khi xưa có người nói là đôi mắt là cửa sổ của linh hồn, mà ngày nay, hình như, sinh ngữ là cái miệng cũng là cửa sổ của linh hồn… cứ nói vắn tắt là linh hồn là cái cửa sổ có hai cánh, đóng đóng mở mở đi, thì đôi mắt là một nửa cửa sổ, cái miệng và ngôn ngữ là một nửa kia của cửa sổ linh hồn, mes enfants, ok?

 

Ok quá đi chứ…

 

Cái ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy của bà Pamart Reine de Saba mãi tới giờ này, qua bao năm tháng, tôi vẫn thấy đúng và như mỗi ngày mỗi đúng hơn… cho tới lúc tôi học, nói và viết được nhiều ngoại ngữ khá chuẩn.

 

*

*        *

 

Buổi chiều ra cổng nghĩa trang, nắng thu vàng còn đậu lại ngang tường đất thánh, những cây hạt dẻ lá đỏ lá vàng vẫn như đứng đó để chào tạm biệt, mười cây vẫn đó không thiếu một cây.

 

Tôi quay xe ra đường lớn, đi ngang quai Jean Mermoz, tôi nhác thấy bóng cái xe màu xanh đậm của em trai. Thì ra đúng là em.

 

Rồi không hẹn mà hai chị em cùng dừng xe trước tabac, vừa chui ra, em tôi mau mắn hỏi:

Chị đi đâu đó, em đoán là vô thăm ông bà Pamart?

 

Tôi chợt sững sờ:

 

Đúng, chị vừa ở trong ấy ra, em đoán tài thiệt!

 

Tài giỏi gì đâu, số là đêm, trong giấc ngủ về sáng, ngủ mê mệt mà em nghe tiếng của bà, đúng là tiếng gọi của bà… “các con ơi, mes enfants, các con học bài xong chưa, chúng ta phải lo tổ chức lễ tạ ơn… tạ ơn hết thẩy mọi người, tạ ơn chúa đã cho chúng ta cuộc sống no đủ hôm nay. Mes enfantsallez-y!“

 

Em nhạy bén thiệt!

 

Nhạy bén thì không chắc, mà cứ tới mùa lễ tạ ơn, là em nhớ tới bà... nhớ những gì bà đã làm cho chúng ta… và làm cho cả mọi người khác nữa.

 

Tốt… mà em mang theo những gì lỉnh kỉnh thế?

 

Ồ, có gì đâu, chỉ có một hộp tarte aux pommes và  một thẻ nhang thơm… em thích thắp trước di ảnh ông bà một cây nhang, vì khói nhang, là đưa gởi, là kết nối… là lên cao.

 

Chúc Thanh
Paris, mùa lễ tạ ơn, 2024

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…
Chị đi bằng xe hàng. Là dân Đà Lạt gốc Huế nên chị gọi xe đò là “xe hàng”. Đi xe hàng, tức là xe đò, là xe chở người và cả hàng chứ không chở riêng hàng. Tiếng Việt hay như vậy đó! Đến Gò Công rồi đi xe lam vào Đồng Nguơn. Ấp Đồng Nguơn. Không phải đây là lần đầu tiên chị được thấy cảnh đồng quê. Đồng quê miền nam hầu như đâu đâu cũng giống nhau. Nhưng có đi nhiều mới thấy mỗi nơi có một chút khác. Phải thế không? Hay chính là cảm giác của chị mỗi lần một khác?
Tôi ước mơ có một ngày nào đó, khi thanh bình thật sự trở về trên nước VN, khi chính thể CS hoàn toàn tan rã, khi con người công chính trở lại làm nền tảng trong xã hội mới, chúng ta sẽ trở về, những ngưới bạn từ thời xa xưa, cùng nhau làm lại một bữa tiệc Tất Niên, mời vong linh các thầy, các bạn, các anh em đồng đội đã chết trong khói lửa chinh chiến, trong các biến cố tang thương của đất nước, trong các trại tù, trên biển…cùng nhập tiệc. Kẻ đang sống cùng người thiên cổ bên cạnh nhau hoài niệm đến một miền thùy dương ngọt ngào nhân tính, một ngôi trường thân yêu giàu truyền thống giáo dục và y đức, một thành phố mến yêu thơ mộng. Để nghe những người quá cố tâm sự về cái chết oan khiên của mình. Được như vậy, hương hồn các vị đó sẽ sớm được siêu thoát và vĩnh viễn an nghỉ chốn nghìn thu. Và chúng ta đây giảm khắc khoải đau thương…
Tôi đã có bốn cái Tết trong trại Panatnikhom và Sikiew, Thailand. Tết đầu tiên thật nhiều kỷ niệm và bất ngờ, vì lúc đó chúng tôi vừa nhập trại trong khi còn hơn một tuần nữa là Tết. Tôi và ba cô bạn đi chung chưa kịp gửi thư cho thân nhân ở nước ngoài để ca bài ca “xin tiền”. Ai lo bận bịu đón Tết thì lo, còn chúng tôi thì lo đi mượn tiền để mua vài vật dụng cần thiết như tấm trải nhựa, tre nứa, dây nilon để làm “nhà” (phải “an cư” mới “lập nghiệp” tỵ nạn được chớ).Khoảng một tuần trước Tết, có một nhóm mấy thanh niên đến thăm vì nghe nói chúng tôi là dân Gò Vấp, nên muốn nhận “đồng hương đồng khói”. Họ là những người trẻ như chúng tôi, nên câu chuyện mau chóng trở nên thân mật và rôm rả
Hỏi thăm ông Hai bán hoa lay-ơn gốc Bình Kiến, nhiều người ngơ ngác hỏi nhau. Tôi lại rảo qua thêm mấy vòng chợ hoa, cũng vừa đi tìm ông Hai, cũng vừa ngắm hoa và ngắm những chậu bonsai bày bán cuối năm, cũng tìm lại mình của gần 20 năm trước, năm nào cũng cứ vào những ngày này, tôi theo ba tôi hóng gió đón sương không hề chợp mắt cùng gian hàng cây kiểng rất bề thế của ba ở đây.
Có lẽ những rộn ràng, hân hoan nhất trong năm không phải là "ba ngày tết", mà là những ngày cận tết. Bắt đầu vào ngày 23 tháng chạp, tối đưa ông Táo về trời. Tất cả mọi sinh hoạt đều hướng về việc chuẩn bị để đón một mùa xuân mới, chào đón nguyên đán và mấy ngày xuân trước mặt. Lúc nhỏ là mùi vải thơm của bộ đồ mới, mùi gạo nếp ngâm cho nồi bánh và hương thơm ngào ngạt cho sàng phơi mứt dừa, mứt bí, mứt gừng ngoài sân. Những đêm ngủ gà ngủ gật ngồi canh bên nồi bánh tét cùng với má, với gia đình xúm quanh. Mùi bếp lửa, mùi khói hương, mùi áo mới lan tỏa của tuổi thơ ngan ngát những ngày xa...
Người ta được nuôi lớn không chỉ bằng thức ăn, mà còn ở lời ru, tiếng hát, và những câu chuyện kể. Chú bé cháu của bà thích được bà ôm vác, gối đầu lên vai bà. Có khi bà mở nhạc từ chiếc nôi cho chú nghe thay cho lời hát, chiếc nôi chú bé đã nằm khi mới lọt lòng mẹ. Có khi bà hát. Bà không ru à ơi, nhưng âm điệu dân gian len vào trong từng lời hát. Chú bé mãi rồi ghiền nghe giọng hát của bà.
Lóng rày tôi hay tẩn mẩn viết về những hồi tưởng tuổi thơ, nhất là những côn trùng ngày xa xưa đó như chuồn chuồn, bươm bướm, ve sầu, dế mèn…Nhiều lúc ngồi nghĩ lẩn thẩn: tại sao vậy? Chắc đó là tâm trạng của người tuổi sắp hết đếm số, tiếc nuối những khi còn cắp sách tới trường. Cắp sách tới trường không phải là chuyện vui nhưng tuổi học trò thì vui thật. Lúc nào, khi nào, chỗ nào cũng toàn thấy chuyện vui chơi. Bạn chơi là người nhưng nhiều lúc là những côn trùng quanh quẩn bên người. Một ông bạn mới gặp nhướng mắt hỏi tôi viết về những bạn chơi nhiều hơn hai chân nhưng chưa thấy nhắc tới bạn của ông ấy. Đó là bọ ngựa. Ông này thuộc loại rắn mắt. Tôi không chung tuổi thơ với ông nhưng chắc ông cũng thuộc loại phá làng phá xóm. Ông kể chuyện ăn me chua trước mấy ông lính thổi kèn trong hàng ngũ khiến mấy ông thợ kèn này chảy nước miếng thổi không được. Tôi thuộc loại hiền nên không có bạn không hiền như bọ ngựa. Ông ta thì khoái bọ ngựa.
“Mày có vợ hồi nào vậy?” chưa kịp chào, mẹ đã ném ra câu hỏi bất ngờ. Tôi lặng thinh. Cục nghẹn trong cổ họng. Tiếng mẹ đã khàn nhưng nghe vẫn quen, vẫn gần gũi, nhưng đặm chút ngạc nhiên và thấp thoáng chút phiền muộn. Hệt như lần hỏi tôi mười mấy năm trước rằng Sao con trốn học. Đường dây điện thoại chợt kêu ù ù, như thể có máy bay hay xe vận tải cơ giới hạng nặng chạy qua chỗ mẹ đứng. Cũng có thể tại tai tôi ù. Tôi cũng không chắc lắm. Giọng nói mẹ chìm vào khối tạp âm hỗn độn. Mẹ lặp lại câu hỏi trong tiếng động cơ rì rầm. Rồi tất cả im vắng bất ngờ. “Hở con?” Mẹ nói.
Bê, con trai của Mẹ, đã theo Mẹ đến giảng đường từ thuở còn trong bụng Mẹ. Suốt thời gian đại học của Mẹ, Bê có nhiều đóng góp khác nhau theo từng thời kỳ. Khi Mẹ làm bài kiểm tra môn Đầu Tư và Tài Chính trong lục cá nguyệt đầu tiên, Bê mới ba tháng tuổi. Mẹ nhẩm tính, bài thi một tiếng rưỡi, đi về từ nhà đến trường thêm một tiếng rưỡi. Như vậy, Bê phải xa Mẹ ít nhất ba tiếng đồng hồ. Mẹ biết tính Bê, mỗi hai tiếng đồng hồ Bê oe oe đòi bú sữa Mẹ. Bê xấu đói lắm, đòi mà không được, Bê nhăn nhó um sùm. Ngày hôm đó, dì Thành đến giữ Bê. Dì Thành rất hồi hộp. Dì chưa có em bé, chẳng biết phải làm sao cho đúng ý Bê. Mẹ thi xong, phóng ra xe về nhà. Mẹ bắt đầu sốt ruột. Mẹ xa Bê đã hơn ba tiếng đồng hồ. Giờ này Bê chắc Bê đã thức giấc. Hy vọng Bê chịu khó nhâm nhi món trà thảo dược cho trẻ sơ sinh trong khi chờ Mẹ về. Thời đó chưa có điện thoại di động. Bởi vậy, có lo cũng để bụng, chứ Mẹ chẳng biết làm sao. Mẹ ba chân bốn cẳng chạy ba tầng lầu. Vừa đến cửa đã nghe tiếng Bê khóc ngằn ngặt.
Khi chơi những bản nhạc hay, Khang khóc theo giai điệu. Mước mắt chảy, tay kéo tình xuống lên, thân hình diệu dẻo theo cảm hứng. gần như mê cuồng, không biết mình là ai. Tôi cảm nhận được cái hay xuất thần nhưng không hiểu. Khang nói: -- “Cậu Út biết không, cái hay của âm nhạc làm cho lòng sung sướng nhưng cái đẹp của âm nhạc làm cho hồn cảm động. Khi món quà quá lớn, quá sức yêu, không thể cười, chỉ có thể khóc.” Tôi nghĩ, những lúc như vậy, Khang không chơi đàn, mà múa với hồn oan.
Tôi làm việc giữ xe cho một casino ở ngoại ô Toronto, gọi là parking attendant. Đó là nghề mà thanh niên ít chịu làm, phần vì lương thấp, mức tối thiểu, hồi đó 5 đồng một giờ, nhưng lý do chính là vì nó buồn. Bãi đậu xe nằm dưới hầm tối, không nhìn thấy người qua lại, nếu ở ngoài trời cũng sau lưng nhà cao tầng. Không ai làm chỗ đậu xe ở khung cảnh xinh đẹp, nơi ấy dành cho hàng quán. Đi học ban ngày, tôi làm thêm ban đêm là việc thích hợp, có thể thỉnh thoảng ngồi học bài. Nhân viên trong phiên gác trước tôi là cô gái bằng tuổi hoặc cùng lắm lớn hơn một hai tuổi, nhưng không hiểu sao cô vẫn có thói quen gọi tôi là em và xưng chị.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.