Hôm nay,  

Những Sợi Tóc Bạc…

22/11/202400:00:00(Xem: 3749)
 
Bạn bè hay nói tôi khó chịu từ khi còn nhỏ, như ngẫu hứng ghé nhà người bạn học nào đó trên đường đi học về. Dĩ nhiên tuổi nhỏ đâu có tính trước chuyện gì, nhưng khi tôi cảm thấy không tiện ở lại thì tôi tự ý ra về và chưa bao giờ hiểu được cảm giác đó từ đâu đến để tôi có quyết định trái ý bạn bè, mang tiếng khó chịu.
  
Khi đã lớn rồi, thỉnh thoảng có dịp gặp lại bạn bè hồi nhỏ, thường cùng nhau nhắc lại những chuyện thời đi học thật vui vẻ vì đầy ắp tiếng cười, ai cũng được ấm lòng phút giây không phải dẻ chừng bạn bè chơi xấu nhau trong hiện tại đã hiểu được giao tiếp xã hội là kết bạn với phản trắc. Tôi có cảm nhận đó, nhưng cũng không hiểu suy nghĩ từ đâu ra. Có bạn khen tôi đã bớt khó chịu như hồi nhỏ thì tôi lại cảm thấy bạn ấy không hiểu tôi còn tệ hơn xưa là ngày càng không hiểu mình nên tôi bớt nói lại, chỉ đơn giản vậy thôi, không xứng đáng lời khen. Nhưng sau khi chia tay, tôi đã tạ ơn trên không để tôi nói ra suy nghĩ thật lòng.
  
Rồi bạn bè xa hơn nữa khi vươn ra hải ngoại, ai cũng có những hoài niệm về tuổi nhỏ ưa tranh cãi nhau những chuyện trong trường. Tranh luận với nhau về một cuốn sách, một phim chiếu rạp đang phải xếp hàng từ một tới hai xuất chiếu mới vô xem được, nhưng xem xong thất vọng với tin đồn… dẫn đến tranh cãi. Cuối cùng dẫn dắt tôi đến suy đi nghĩ lại về tranh cãi dễ hiểu hơn vấn đề tranh cãi hồi nhỏ vì tranh cãi là giành phần thắng cụ thể hơn tranh luận là dùng kiến thức, khả năng lý luận để chứng minh một điều phi thực tế. Nhưng rồi nhiều năm sau đó, nhìn lại cuộc tranh luận nào cũng có kết quả tương tự là bạn bè xa nhau. Giận ít thì bỏ qua theo thời gian xoa dịu tự ái, giận nhiều thì cả hai còn lại gì ngoài lòng hối hận.
  
Những khi chợt nhớ thời đi học, tôi thường nhớ đến, nghĩ nhiều về Ty trước ai hết như định mệnh đã an bài cho tôi với Ty một thời tuổi trẻ. Ty như ngồi bên tôi đang lái xe, đang câu cá một mình, hay đang ngồi cùng bạn bè giờ ra chơi ở sân trường ngày nào, và trò chuyện. Tôi nhớ đã nói với một người bạn so sánh khập khiễng về đạo Phật với đạo Chúa để chọc ghẹo, mua vui chứ nó cũng không có ý gì. Tôi đã nói, “Người ta nói Phật có đức hiếu sanh vì quan niệm Phật giáo cho rằng vạn vật có linh hồn nên người tu hành không được giết con gì hết, đạo Phật không cấm người phàm sát sanh nhưng khuyên nhủ... So với đạo Chúa cho rằng vạn vật do đấng Tạo hoá sinh ra, sau đó tùy ngài ban phát. Nên người đạo Chúa, nói: ‘Tạ ơn Chúa ban cho lương thực hàng ngày’ trước khi ăn, không kể là ăn rau hay thịt.”
  
“Vì sợ chê sẽ bị Chúa lấy lại…”  là tên bạn cà khịa cứ cố tình chọc ghẹo Ty sùng đạo, nói, chứ không phải tôi. Nó khịa thêm, “Nếu tôi với Ty hợp tác mở công ty trách nhiệm hữu hạn trồng lúa thì các bạn nghĩ xem, Chúa sẽ ban phát cho Ty gạo, còn tôi…”
  
“Chúa biết con bò thích ăn rơm rạ. Mày yên tâm đi…” Tôi nói cho cả đám bạn cười.
  
Ty hiền lành, ngoan đạo nhưng khi lên tiếng thì tôi nể. Ty nói, “Những loài ăn cỏ thường có mức sinh sản cao hơn thú ăn thịt. Nếu chúng không bị thú ăn thịt dùng làm thức ăn hằng ngày thì trái đất không đủ cỏ cho chúng ăn, tồn tại. Con người hết đất sống vì nhìn đâu cũng toàn thú ăn cỏ… Rồi những con rắn độc không bị giết thì loài người sẽ chết rất nhiều vì bị rắn độc cắn. Ty thấy việc không nên sát sanh theo đạo Phật mang tính nhân đạo, nhưng theo đấng Sáng tạo ra muôn loài thì sự hủy diệt cũng cần thiết để đổi mới. Thử nghĩ xem, cỏ cây hoa trái không chết vì bị con người và muông thú ăn; con người trường sinh vì không bị thú dữ tấn công, thiên tai, dịch bệnh.., muông thú bất tử vì cọp không ăn thỏ, thỏ không ăn cỏ, người không ăn thịt thú vật nấu với rau củ thì muôn loài sẽ chết hết vì không đủ đất sống, chết đói hết muôn loài vì con gì không cần ăn mà sống được?”
  
Bạn bè khen Ty khéo lo xa nhưng nhìn tôi. Tôi biết mũi dùi của Ty đã chĩa vào mình vì hiểu ý tôi về sát sanh như một sự châm chọc đạo Chúa. Lẽ ra tôi không nên nói gì thêm, nhưng còn trẻ quá nên chưa biết dừng lại khi cần. Tôi nói, “Phật nói là tu sĩ không được, con người cũng không nên sát sanh thôi, còn muông thú thì sinh tồn theo quy luật tự nhiên vì chúng là muông thú, không phải con người. Ty đừng hiểu lầm tôi châm chích đạo Chúa sát sanh…”
  
Ty tiếp tục nói, “Vậy sao cô giáo dạy Sinh vật xếp con người vào loại động vật có xương sống, thuộc nhóm động vật có vú thì cũng là động vật. Theo Ty hiểu là Chúa sẽ không ban lương thực hàng ngày cho người này là cánh tay hay cái chân của người kia vì tất cả là con chiên của Chúa, chúng ta không ăn thịt lẫn nhau, không ăn thịt đồng loại. Vì vậy chúng ta phải ‘Tạ ơn Chúa ban cho lương thực hằng ngày’ vì cây lúa không sinh ra hạt gạo thì cây lúa khác gì cỏ dại? Chúa không tạo ra đàn gia súc sinh sôi nảy nở thì lấy gì để ban phát cho con người có thịt ăn, Nên con người: Tạ ơn Chúa ban cho lương thực hằng ngày là hợp lý… như ai cho mình vật gì dù lớn hay nhỏ mà mình không cảm ơn thì kỳ chết đi.”
  
Tôi nghĩ là Ty không hiểu ý tôi trình bày quan điểm hai tôi giáo chứ không có ý xúc phạm, Ty đã hiểu lầm ý tôi đả kích đạo Chúa cho giết hại động vật nên tôi đã cố gắnh để hối hận về sau, “Ty đi nhà thờ nên không biết Đức Phật cho môn đệ ăn thịt là chuyện tôi đã đọc. Một đệ tử của Đức Phật cứ bị mấy cô gái trong làng trêu chọc, mấy cô chơi ác là cúng dường cho tỳ kheo đi khất thực toàn thịt với cá. Tỳ kheo trẻ về hỏi Đức Thế tôn, “Con được phép ăn không?” Phật trả lời, thí chủ cúng dường cho chư tăng vật thực gì thì chư tăng ăn vật thực ấy, chỉ cần ăn trước ngọ vì sau giờ ngọ là giờ âm, thuộc về ma qủy… Nghĩa là chư tăng không được sát sanh nhưng được ăn thịt do Phật tử cúng dường. Điều quan trọng không phải là ăn thịt hay rau mà quan trọng là người đi tu không được sát sanh, không được ăn sau giờ ngọ. (Nên người Phật giáo cúng giỗ ông bà tổ tiên đều thức khuya dậy sớm để làm hoàn tất những món cúng và thắp nhang cúng giỗ trước giờ ngọ, bởi sau giờ ngọ là giờ âm, thuộc ma quỷ.)
  

Trở lại với câu chuyện của chúng ta đang nói, chúng ta không đả kích niềm tin tôn giáo của ai hết vì trên căn bản, con người hơn muôn loài vì có tri thức và tâm linh. Con người hơn nhau ở đức tin chứ không phải tài sản vật chất hay danh tiếng; con người sau hoà bình khác nhau ở quan niệm hữu thần và vô thần. Đây là điều chúng ta cẩn suy nghĩ khi phải học học thuyết tiến hoá, một học thuyết vô thần đã phủ nhận hữu thần tồn tại trong nhân loại từ khai thiên lập địa. Khi bạn lạc lõng trong tâm tư, bạn tìm sự thương xót nơi Đức Mẹ; tôi bơ vơ tận đáy lòng, tôi tìm sự cứu rỗi nơi Phật bà. Nhưng người bạn của chúng ta từ hôm làm bí thư đoàn thanh niên kia sau khi vô đoàn thì đi đâu, kêu ai để có sự cứu rỗi hay thương xót sau khi bạn ấy đã bỏ đạo để vô đoàn, phấn đấu vô đảng bằng cách điền đơn bỏ học đi bộ đội... Con người khác muông thú vì có tâm linh, có thần linh. Vậy người bỏ hữu thần theo vô thần là trở lại kiếp súc sanh? Tôi không biết! Tôi muốn bạn hiểu, tôi không phân biệt hay đả kích tôn giáo, chỉ nói về sự khác biệt quan niệm. Tôi chỉ phân biệt hữu thần với vô thần. Rồi thì mỗi tín đồ của tôn giáo nào cứ làm đúng theo kinh sách của tôn giáo đó đã dạy, sống đúng theo lời răn của tôn giáo ấy là bình an dưới thế cho người thiện tâm… Chúc bạn vững niềm tin vinh danh Chúa ở trên trời. Chúc mọi người có đức tin tự chọn, có rồi thì đừng từ bỏ đức tin đã chọn để trở thành vô thần. Chúc người vô thần sớm thức tỉnh mà quay lại. Chúc bạn bè vui lòng và tỉnh táo cầu nguyện cho người bạn vô tội của chúng ta đang bị qủy ám… Chúc chúng ta không vì những hiểu lầm mà xa cách…”
  
Tôi đã không đúng hay Ty muốn thế mà ép tôi nói ra những lời hối hận về sau. Tôi đã nói, “Chúa ban phước đời đời cho chiên ngoan. Phật vô sản nên chỉ cầu chúng sanh hiểu, ‘chúng ta bơi mãi trong bể khổ cũng không thấy bến bờ đâu, nhưng quay đầu lại sẽ thấy bến bờ ngay’. Tôi với bạn hơi đâu mà tranh cãi về giáo lý vì lý không có giáo và giáo nào cũng không có lý. Cha mẹ chúng ta đều làm việc để nuôi con cái trưởng thành. Chúng ta sẽ tiếp tục làm việc sau khi trưởng thành để nuôi dạy con cái chúng ta là lý, là thiên lý. Lý lẽ của trời đất khác hết mọi giáo lý tôn giáo trên đời vì đều do con người sáng tạo ra giáo là giáo điều và dùng lý là lý luận để bảo hộ giáo điều, không phải là lý lẽ của trời đất với lý là chân lý và lẽ là lẽ phải, là tự nhiên. Tại sao tôi phải tin vào giáo điều lương thực hằng ngày do Chúa ban. Tại sao tôi phải tin vào ông Phật nói không nên sát sanh vì nghiệp quả không chừa ai hết. Tại sao tôi không được nghĩ giáo lý do con người tạo ra là tiền đề cho thuyết vô thần xuất hiện trong cõi người vì giáo lý nào không bảo vệ học thuyết, giáo phái của mình? Trong khi thiên lý không giảng đạo mà trường tồn vì hữu lý, hợp lý với con người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo đạo, đạo thuận theo tự nhiên. Tại sao đaọ trời tồn, theo tôi là vì không giảng đạo. Tôi hiểu thiên lý của trời đất là lý lẽ, lẽ phải không thể chối cãi nên trường tồn. Nhưng lý của giáo lý là lý luận bảo hộ cho tư tưởng của giáo chủ. Giáo là tập hợp tư tưởng của giáo chủ cho những người tin theo lý luận bảo hộ tư tưởng người khai sáng. Nói về tôn giáo, tôi không có gì ngoài sự kính trọng người khai sáng ra các tôn giáo, tôi không có đả kích nào vì tất cả mọi giáo lý của những tôn giáo mà tôi biết đều hướng thiện con người. Tôi tin tôn giáo đã giúp bạn với tôi thành người có tư duy, là tiền đề của hiểu biết ra rằng không có gì tự nhiên có trong trời đất. Nếu là tôi đã chết bởi bom đạn trong chiến tranh thì hôm nay tôi gặp bạn không? Nếu là tôi đã kịp theo anh tôi di tản ra hải ngoại thì đời này tôi có gặp bạn không? Chúng ta không có nếu không được cha mẹ sinh ra, vậy phải sống hiếu đạo cho hợp lẽ trời đất. Sao cây lúa không trổ ra hạt độc để ăn vào là chết người mà trổ ra hạt gạo giàu dinh dưởng nuôi sống con người? Vậy thì ai, bàn tay ai đã can thiệp vào việc cha mẹ sinh con, cây lương thực không sinh ra trái độc? Chắc chắn là có sự can thiệp rồi, chỉ là suy diễn mà có giáo. Giáo luôn ngược lý nên gọi là giáo điều, lý luôn ngược giáo nên gọi là lý lẽ. Lý bảo hộ giáo chỉ là lý luận. Nên mấy ngàn năm nay có hai thiện nhân không ngừng thuyết phục nhân loại với giáo nhưng nghe có lý, nhưng chỉ dừng lại ở lý luận chứ không phài lý lẽ của tự nhiên nên không thuyết phục được hết nhân loại sống đạo. Nói tóm lại là sống thuận theo tự nhiên sẽ trường tồn, sống theo đạo trời sẽ bất diệt vì đạo thờ trời đất là đạo tuân theo tự nhiên, theo lý lẽ. Dòng sông có trước chúng ta, trước ông bà chúng ta khai hoang vùng đất này. Bao đời đã thuận theo tự nhiên mà sống, có vấn đề gì không? Vấn để chỉ có từ khi ngăn sông đắp đập, làm thủy lợi đâu không thấy chỉ thấy ngập mặn, phèn chua vàng đồng thì lúa nào sống nổi, chúng ta ăn bo bo viện trợ tới vàng mắt… Không phi tôi không hiểu bạn muốn nói tới, bạn đã tin Chúa Trời là Đấng Sáng thế, tạo ra muôn loài. Ông trời mà tôi đang nói đến chính là ngài, có đúng không? Tôi chưa có câu trả lời cho bạn được…”
  
Bạn phó lớp học tập là bạn chứ không trở mặt thành thù địch như bạn bí thư đoàn đã bỏ đi chùa, sắp bỏ học đi bộ đội để được vô đảng… Bạn phó lớp học tập hoảng nên la làng, “Các bạn muốn chết rồi hả? Muốn lên văn phòng viết kiểm điểm cả đám hả? Muốn bị đuổi học hả? Làm ơn im miệng, vô học dùm tôi…”
  
Cả đám bạn cười xua tuổi học trò đi. Mấy hôm sau, T nán bước trên đường đi học về làm tôi cũng bối rối. Tôi không biết bạn tôi nghĩ gì mà lên tiếng xin lỗi. Tôi không thấy có lỗi nên nói thật lòng, thật lòng nhất là tôi không nhận lời xin lỗi vì T có lỗi gì đâu mà xin lỗi tôi? Bảo vệ đức tin của mình là chính đáng mà… Thánh tử đạo được tôn thờ chứ ai dám thất kính. Chúng ta là bạn học, tranh luận để cùng hiểu biết, giúp nhau hiểu biết chứ có làm hại nhau đâu mà xin lỗi.
  
Chúng tôi không có cơ hội tranh luận nữa cho tới ra trường. Mấy chục năm sau gặp lại bạn trường xưa xóm cũ, Tôi lại có cảm nhận, cảm giác không bình thường với Ty như với bạn bè khác, là duyên nợ gì đó theo Phật sách mà tôi đã đọc. Dù Ty vui vẻ hơn xưa nhiều, hỏi tôi sau bao năm xa cách, “Ông có nhuộn tóc không vậy?” Tôi trả lời, “không”; và Ty nói tiếp, “Vậy mà tóc Ty đã bạc hết rồi!” Tôi an ủi bạn, an ủi tôi, an ủi thế hệ thiếu may mắn được ăn học lại còn bị giáo dục bậy bạ, bơm thổi vào đầu óc non trẻ chủ thuyết vô thần. Tôi nói với Ty cũng thật lòng như bao năm trước, “Tóc bạc là tự nhiên, bạc lòng mới đáng trách tôi chưa bao giờ nói với Ty một lời xin lỗi…”
  
Bạn bè tôi lại nhộn lên như hồi còn đi học. Tôi tin Ty cũng có suy nghĩ như tôi trong dài năm không gặp, hai chúng tôi không tranh luận gì nữa suốt cả tuần họp mặt. Có lẽ cuộc sống đã trôi đi những tình thân, tình bạn cũng bụi mờ. Khi sự trơ trọi không mời mà đến với mỗi người, người ta biết làm gì hơn là học nhường nhịn khi hiểu ra cái tôi là nguyên nhân rạn nứt mọi quan hệ. Nhưng cái tôi rồi cũng nguội lạnh theo mệt mỏi, tan biến vào hư không, để lại một khoảng trống cho lòng hối tiếc. Phải không Ty?
  
Khi sức tiếp thu đã cùn mòn năm tháng, sự nắm bắt không còn nhanh nhạy nên đọc tờ báo, tạp chí, cuốn sách khi rảnh rỗi cho không lãng phí thời gian còn lại chỉ là cách níu kéo thời gian hơn mở mang kiến thức. Chuyện tranh luận với bạn bè không còn quan trọng bằng sự thấu hiểu muộn màng nên tôi chỉ còn lòng hối hận với những sợi tóc bạc… vì lỗi tại tôi.
 
Phan
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.