Hôm nay,  

Trở Về Mái Trường Xưa

03/12/202419:54:00(Xem: 4758)

TRỞ  VỀ  MÁI  TRƯỜNG XƯA

                                  
Hồi Ký PT Nguyễn Mạnh San

blank
 

Vào cuối tháng 5 vừa qua, tôi lại có dịp quay trở về lại mái trường xưa, để tham dự buổi lễ ra trường của một cháu gái Cynthia Ngô, được lãnh nhận bằng Tiến Sĩ Luật Khoa, tại Đại Học Oklahoma City University (OCU), mà tôi là người đỡ đầu (God Father) khuyến khích cho cháu này theo học ngành luật khoa, cũng tại ngôi trường trước kia tôi học. Mái trường xưa này đã gợi cho tôi nhớ lại hình ảnh 2 kỷ niệm trong quá khứ khó quên và một kỷ niệm rất đặc biệt ra trường của cháu gái này vào ngày hôm nay như sau:
 

Kỷ niệm thứ nhất: Tôi đã theo học liên tiếp gần 5 năm tại đại học OCU này và ra trường với bằng Cao Học Tâm Lý Học vào năm 1981, lúc đó chỉ có một mình tôi là sinh viên Việt Nam duy nhất tốt nghiệp ngành này và buổi lễ ra trường cho tất cả các sinh viên tốt nghiệp thuộc các  phân khoa của đại học này, cũng chỉ thấy có một mình tôi là sinh viên Việt Nam lên lãnh nhận văn bằng tốt nghiệp tại đại học này, mặc dầu trong lòng tôi cảm thấy bồi hồi sung sướng vì đã học xong môn học này, nhất là tôi đã có công ăn việc làm rồi, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy một chút niềm cô đơn, vì chỉ có mình tôi là sinh viên Việt Nam và hơn thế nữa đối với hầu hết các sinh viên tốt nghiệp ngày hôm đó, tôi thấy mình thuộc hàng sinh viên cao niên với 41 xuân thì, nhưng tôi vẫn còn ôm nhiều mơ ước trong lòng và trước ngày ra trường 1 tháng, tôi đã được phỏng vấn và được thâu nhận vào làm việc cho Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ liên tục hơn 32 năm, để đặc trách Luật Sư Đoàn Liên Bang và Nhập Tịch (US Attorney Admission & Naturalization). Lúc đó tôi cảm thấy nhờ vào mái trường này, mà tôi đã có cơ hội được phục vụ trong Ngánh Tư Pháp Liên Bang Hoa Kỳ và hơn nữa đây cũng là một dịp may mắn cho riêng tôi được tiếp tục phục vụ đồng bào Việt Nam tại cơ quan mới, trong nhiệm vụ đặc trách tuyên thệ nhập tịch Hoa Kỳ nói riêng, lại được tiếp nối sau 5 năm tôi đặc trách Chương Trình Tỵ Nạn Đông Nam Á cho cơ quan USCC, từ tháng 5 năm 1975 đến tháng 5 năm 1980 và đồng thời cho các ứng viên tuyên thệ nhập tịch Hoa Kỳ, thuộc các quốc gia trên thế giới nói chung, mà trong đó ứng viên nhập tịch Việt Nam là đông nhất.
 

Kỷ niệm thứ hai: Nối gót theo bước chân của tôi, người con trai út của tôi học liên tục 4 năm cũng tại đại học OCU này và con tôi đã ra trường vào năm 2004 với bằng Cử Nhân Thương Mại. Lại một lần nữa cho tôi một dịp trở về thăm mái trường xưa, để tham dự buổi lễ ra trường của con tôi, lòng tôi bồi hồi xao xuyến, tưởng rằng tôi sẽ được nhìn lại cảnh cũ người xưa, là hy vọng sẽ gặp lại các giáo sư cũ và vài người bạn học cũ cùng lớp ngày xưa. Nhưng những cảnh vật trong ngôi trường đều khác lạ, cây cối thưa thớt hơn trước nhiều, các tòa nhà cũ dành cho các phân khoa trước kia đều được tân trang lại như mới hoặc có một số các tòa nhà hoàn toàn mới được xây cất thêm, các lớp học rộng rãi khang trang hơn trước và cũng không gặp mặt được mấy 

thầy dạy học cũ của tôi và cũng không gặp lại một ai là bạn học cũ cùng lớp với tôi. Nói tóm lại mái trường xưa, nhìn toàn diện cảnh vật lẫn người, không còn giống như ngày xưa nữa, tất cả đều khác lạ. Do đó, cảm giác của tôi hôm đó hoàn toàn xa lạ với mái trường xưa, mà tôi hằng yêu mến vì tôi đã học ở đây 5 năm liên tục từ năm 1975 cho đến năm 1981.
 

Kỷ niệm thứ ba: Như đã giới thiệu sơ qua trong phần mở đầu trên đây, hôm nay tôi lại có dịp quay trở lại mái trường xưa lần thứ hai, để tham dự lễ ra trường của một cháu gái Cynthia Ngô, tốt nghiệp bằng Tiến Sĩ Luật Khoa, mà tôi là người đỡ đầu (God father) cho cháu theo học ngành luật khoa tại Đại Học OCU này. Nhìn lên trên sân khấu, chỉ thấy có 2 sinh viên Việt Nam lên lãnh bằng tốt nghiệp, làm cho tôi nhớ lại ngày ra trường của tôi, cũng chỉ có mình tôi là sinh viên Việt Nam duy nhất lên lãnh bằng tốt nghiệp. Nhưng lần này cảnh tượng ngôi trường không khác lạ mấy với tôi, so với ngày ra trường của con trai út của tôi vào năm 2004. Tuy nhiên nhân dịp này có một sự kiện hết sức độc đáo bất ngờ xẩy ra, là trong ngày ra trường của cháu Cynthia, tôi gặp lại một cựu tù nhân da mầu, mà anh này cho tôi biết hiện nay anh đã tốt nghiệp với văn bằng tiến sĩ luật khoa, nhưng chưa có bằng hành nghề luật sư (Bar license) đang làm việc cho một trong 3 hãng luật (Law firm) lớn nhất tại tiểu bang này, mà anh chỉ ngồi nghiên cứu những án lệ (Case laws), để ngồi viết những bài lý đoán (Pleadings) cho những luật sư trong hãng của anh, mà những luật sư này chuyên biệt ra tòa tranh tụng (Trial lawyer), để bênh vực cho thân chủ của hãng.


 
Anh nói tới đây, làm tôi nhớ lại, cách đây 12 năm, khi tôi ghi danh tham dự khóa luyện thi lấy bằng hành nghề luật sư (Bar review) tại tiểu bang Louisiana, một vị giáo sư giảng dạy môn hình luật (Criminal law) cho biết, tùy theo luật lệ hành nghề luật sư (Professional responsibilities) của từng tiểu bang, nếu một cựu tù nhân phạm trọng tội đại hình, có thể bị cấm thi lấy bằng hành nghề luật sư hoặc bị treo giò (Suspension) một thời gian, cấm không cho thi. Còn vấn đề học lấy bằng luật khoa thì không cấm. Có lẽ vì anh là cựu tù nhân phạm tội đại hình (Former felony prisoner) hoặc anh còn đang trong tình trạng tiếp tục thi hành cho xong bản án tại ngoại (Parole), cho dù đương sự có bằng tiến sĩ luật khoa, nhưng vẫn nằm trong thời gian thi hành bản án tại ngoại, nên chưa được phép dự thi để lấy bằng hành nghề luật sư (Bar license); chứ thực ra đương sự là một người rất có tài nói năng hùng biện (Eloquent speech), mà tôi được biết rõ đương sự như sau:
 

Cách đây khoảng trên 12 năm, trong thời gian hơn một năm anh bị giam ở trại tạm giam (Jail), là nơi tôi đang phục vụ cho anh em nam nữ tù nhân vào những ngày nghỉ cuối tuần, trong nhiệm vụ là tuyên úy trại tù và trong suốt thời anh bị tạm giam ở đây, để chờ đợi đi trình diện những phiên tòa xét xử anh về tội buôn bán cần sa ma túy, nên tôi có rất nhiều dịp được tiếp xúc trực tiếp để nói chuyện riêng với anh hàng giờ. Lúc đó, anh khoảng 22 tuổi, đã học xong bậc trung học, nói năng rất hoạt bát hùng biện, tỏ ra anh là một thanh niên thông minh đầy mưu lược, có lần anh tâm sự cho tôi biết, anh rất tức giận vì vị luật sư miễn phí bênh vực cho anh trước toà, đã không thèm đến thăm hỏi anh, để thu thập thêm các tin tức cần thiết khác, hầu có thể bênh vực cho anh được  án nhẹ trước tòa, nhưng luật sư bênh vực cho anh chỉ đến gặp mặt anh vẻn vẹn có một lần duy nhất, trước một ngày phiên tòa xét xử, anh cho rằng vì thế anh đã phải lãnh án ở tù khá nặng tới 15 năm, nhưng may mắn cho anh chỉ phải ở trong tù có 7 năm rưỡi, thời gian còn lại của 15 năm, anh được hưởng quy chế tại ngoại, tù tại gia (Parole) vì suốt thời gian anh ở tù, anh được Ban Giám Thị trại tù ghi nhận hạnh kiểm của anh rất tốt và anh tiếp tục tâm sự với tôi, là sau khi anh mãn hạn ở tù, anh sẽ cố gắng ghi danh học luật để trở thành một luật sư và sẽ tình nguyện bào chữa miễn phí cho những người nghèo phạm tội hình sự, không có tiền thuê mướn luật sư bênh vực cho họ.
 
Tôi có hỏi anh là anh lấy tiền đâu ra để trả tiền học phí? Anh trả lời tôi là nhờ vào nhiều lần buôn bán cần sa ma túy trong 2 năm liền, mà không bị nhân viên chính quyền bắt anh, nhờ thế anh đã để dành được một số tiền hơn 4 trăm ngàn Mỹ Kim, anh bỏ hết số tiền mặt này vào trong một cái chum (Jar) có nắp đạy kín, chung quanh nắp anh dán kín bằng một loại keo dính chặt đặc biệt (Super glue), để nước không thể thấm vào bên trong chum làm hư nát tiền, anh đào một lỗ thật sâu xuống lòng đất ngay đằng sau vườn nhà anh, rồi anh đem chôn cái chum này xuống, không ai biết, trước khi anh bị bắt giam là lần đầu tiên này.
 
Vì thế, khi nhân viên chính quyền đến khám xét nhà anh, chỉ tịch thâu được một số thuốc sì ke ma túy mà anh cất giấu trong nhà, chưa kịp đem đi bán và tịch thâu được một số hiện kim tiền mặt hơn 5 ngàn đồng. Nhưng đến khi anh được phép ra khỏi nhà tù, để tiếp tục thi hành bản án tù 15 năm tại gia, thì căn nhà của anh mà trước đây anh chôn giấu tiền, đã bị chính quyền tich thâu và đã đem đi bán đấu giá mất rồi; anh kể tiếp, rất may có người bạn thân anh như anh em ruột, anh nhờ người bạn này cho vay 65 ngàn và đứng tên mua căn nhà này cho anh. Sau khi mua căn nhà này xong, anh đào đất nơi anh chôn cái chum và đưa cái chum lên mặt đất, mở chum ra thấy số tiền hơn 4 trăm ngàn Mỹ kim vẫn còn nguyên vẹn, không bị hư nát, anh trả lại liền một lúc số tiền vay nợ bạn mình, số tiền còn lại anh dùng trả tiền học phí, để cuối cùng anh ra trường với văn bằng tiến sĩ luật khoa, như anh đã tâm sự với tôi trong ngày ra trường của cháu Cynthia, mà vừa được thuật lại trên đây.

 
Một điều làm tôi phải nể phục anh nhất, là mặc dù hiện tại anh chưa có bằng hành nghề luật sư, để trực tiếp có quyền hạn đứng ra bênh vực tội trạng trước tòa, cho những người nghèo vô tình hay chủ ý vi phạm pháp luật; tuy nhiên anh cho tôi biết, là anh vẫn trích ra hàng tháng một phần tiền lương của anh, để trả cho luật sư đứng ra bênh vực cho một số phạm nhân nghèo trước tòa, mỗi khi họ đến nhờ cậy anh giúp đỡ. Phải thành thật mà nói, sau hơn 32 năm đặc trách Luật Sư Đoàn Liên Bang tại Tòa Án Liên Bang Hoa Kỳ, tôi nhận thấy rất hiếm có luật sư nào lại có tấm lòng bác ái, biết thương phạm nhân nghèo, như anh cựu tù nhân da mầu này, đang làm việc trong ngành tư pháp Hoa Kỳ.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dù Mẹ ở tuổi nào đi nữa, ngọn lửa thương yêu trong mắt mẹ dành cho các con vẫn luôn tỏa sáng, không hề lụi tàn. Ngọn lửa đó theo chúng ta suốt cuộc đời, nâng đỡ chúng ta khi vấp ngã, giúp chúng ta thêm sức mạnh trong mọi giông bão của đời sống.. Xin đừng quên cầu nguyện cho những bà Mẹ được an toàn trước Coronavirus. Cũng xin gởi đến bông hồng tươi thắm nhất cho những bà mẹ trẻ đang làm việc ở “tuyến đầu”, không thể ôm hôn con mình mỗi tối.
Mẹ là từ gọi đầu tiên của loài người khi bắt đầu biết nói và cũng có lẽ cho mọi sinh vật trên trái đất, bởi hơn thế nữa mẹ là người đã đưa những sinh linh bé nhỏ đi vào cuộc đời mênh mông sau những tháng ngày ấp ủ trong lòng mình. Vì thế quả thật mẹ là ngôn từ vĩ đại nhất mà mọi sinh vật phải biết ơn và tự hào để có mặt trên cuộc đời này.
Đêm Rằm tháng Tư, chùa Châu Lâm lung linh trong muôn ngàn ngọn nến, hoa toả hương, mùi trầm thoang thoảng… tượng bổn sư ngồi an nhiên tự tại dưới cội bồ đề. Một cảnh tượng khiến nhiều người liên tưởng đến một thời pháp hội ở tịnh xá Kỳ Hoàn. Năm ấy, khi Thế Tôn còn tại thế, tịnh xá Kỳ Hoàn có pháp hội lớn. Vương tôn công tử và bá tánh nô nức cúng dường hương thơm và đèn. Có một bà lão ăn mày vét hết túi chỉ được đồng bạc, bà mua đèn và ít dầu đem đến cúng dường Phật. Khi đêm về khuya, các vị tăng đi tắt đèn, bao nhiêu ngọn đều tắt hết, duy chỉ có một ngọn đèn không sao tắt được, có vị vận thần thông mà cũng không tắt được, càng quạt thì càng sáng hơn. Các vị tăng bèn vào thưa với Phật, Phật bảo "Đó là cây đèn cúng dường của bà lão ăn mày, đó là ngọn tâm đăng, các ông không thể dập tắt, không có ai có thể làm tắt được."
Tôi đến tiển đưa Anh vào buổi chiều hoen nắng. Trời Chicago đang độ vào thu đượm màu vàng úa của lá và mây trời ẩm đục. Gió se lạnh. Giờ này anh đã an vị. Anh bình thản nằm trong quan tài sau bao nhiêu năm chiến đấu cho Tự do Dân chủ. Anh đã đi qua thời khói lửa như một người lính chiến trong màu áo trận. Anh đã bắt đầu thời hòa bình hơn 12 năm trong lao tù cải tạo của Chuyên Chính Vô Sản: từ khám lớn Chí Hòa đến Hoàng Liên Sơn, Bắc Thái, Sơn La, Lý Bá Sơ, Nghệ Tĩnh…Không có vùng đất gian khổ nào của quê hương,của tổ quốc thiếu dấu chân anh. Không có thời điểm nào nguy biến cũng như vinh quang của Quân Đội Việt Nam Cộng Hòa mà anh không cùng anh em chia sẻ.
Bầu trời đen kịt, từng lằn chớp loé lên chằng chịt rạch nát không gian, những tia chớp xanh lè bén như lưỡi đao truỷ thủ mà laị nóng kinh hồn, hễ phóng đụng vật gì thì vật ấy cháy và nát ra. Sấm đì đùng động đến tận đường địa ngục, sấm bổ tan cả đá, đánh vỡ những gì cản đường của nó. Gió giật từng hồi, thổi tung tất cả những vật trên đường đi, cả đất trời như tận thế. Các vị thiên sợ sệt, khép thân không dám nói lời nào.
Qua khung kính cửa sổ phi cơ, Hạnh thấy những ánh đèn ly ty lùi lại trong bóng đêm. Khoảng không gian giữa những chấm sáng ly ty đó và chiếc Boeing đồ sộ này có lẽ xa lắm; nhưng Hạnh tưởng như nàng thấy rõ những con đường mòn len lõi trong rừng thông, từng làn sóng òa vỡ lao xao trên ghềnh đá và những bệ xi-măng vỡ vụn của một phi trường bỏ hoang. Phi trường đó mang tên Orote Point. Cái tên lạ, vô nghĩa như khoảng thời gian dài vô vị trong căn lều vải, trên những chiếc ghế bố nhà binh.
Khi em đưa cái Thẻ Kiểm Tra, mình chưa đọc tên đã biết ngay là em. Nhưng mình cứ làm tỉnh ngồi ôn lại những kỷ niệm ngày xưa. Em thì tình thiệt không biết mình. Nhớ hồi nhỏ hai đứa cũng quyến luyến nhau, dầu chưa tới mười tuổi. Em hay giận hờn
Điện thoại rung, tôi coi thấy Dũng gọi. Biết Dũng chưa bao giờ đi làm sở, sẽ gọi lại nhiều lần nếu không được trả lời nên tôi khẽ đứng dậy bước ra phòng họp gọi bấm phône hỏi: - Có chuyện gì không Dũng? - Chiều nay anh có rảnh không? Tới em. Em làm vài món, mình làm lai rai vài lon. Thứ hai nhà hàng em đóng cửa. - Được ông chủ nhà hàng nấu là nhất rồi. Chết cũng phải mò tới. Anh đang bận họp. Tí anh gọi lại em.
Giữa bất an, và lo buồn của mùa.... mắc dịch, vẫn có những điều làm người ta vui hơn, an tâm vì dù tình hình có xấu đến đâu đi nữa, vẫn có những tấm lòng. Chẳng hạn ở Severna Park, Maryland, từ vài tuần nay, mỗi ngày vào khoảng 11 giờ sáng ở một góc đường, trên một cái bàn màu trắng, có một số túi giấy màu nâu (lunch bags) để ngay ngắn trên bàn với tấm bảng viết tay khá lớn : "Phần ăn trưa miễn phí cho bất cứ ai cần" .
Ánh nắng chói chang như thiêu đốt nhức cả mắt, cháy cả da thịt, da dẻ ai cũng sạm đen thô ráp, đầu bù tóc rối, môi nút nẻ tứa máu, có vệt đã khô, có vệt mới còn tươi. Mọi người nằm rũ rượi như những tàu lá chuối bị hơ lửa, áo quần nhàu nát, dơ dáy, xốc xếch trông như những hình nhân.
Ôi, Sài Gòn của Ngà, cái Sài Gòn xưa với đủ mọi sắc màu tươi thắm lấm lem, cổ tích với dân dã, ngọt ngào lẫn tủi cực, cái Sài Gòn mà người ta nhất quyết bôi xóa, nó đã mọc lên ở đây, ở cái khe đất người bản xứ không chú ý, như những cây me con con đã nhờ gió thổi hạt bay tứ phương rồi lén lút trồi lên ở bất cứ rãnh đất trống nào, trong khi Sài Gòn ngày nay ở quê nhà lại như những con phố ngoại quốc lòe loẹt cửa hàng thời trang với những tòa nhà chọc trời che hết thổi bay hết các sắc mùi quê hương yêu dấu.
Ba tôi là một sĩ quan truyền tin của quân đội VNCH. Gia đình tôi sống trong Bộ Tổng Tham Mưu, gần sát phi trường Tân Sơn Nhất. Vì sống trong trung tâm của Bộ Tổng Tham mưu nên ba tôi nói rất nguy hiểm và ba đã xây một cái hầm cho mẹ con tôi trốn đạn. Mẹ nói ba làm rất cực để giữ an toàn cho gia đình. Ba vì công việc nên đi hoài, mẹ ở nhà mỗi khi nghe đạn pháo nổ dắt chúng tôi chạy xuống hầm trốn đạn. Và ngày ấy đạn pháo bay như mưa, tôi còn nhớ cứ lâu lâu nghe tiếng súng bắn và nghe người ta la "chết rồi, máy bay cháy", hoặc "chết rồi, nổ rồi, cháy ..cháy" và trên radio thì cứ nghe bài hát "một cánh tay đưa lên, hàng ngàn cánh tay đưa lên quyết đấu tranh…. ".


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.