Hôm nay,  

Lên Đường

05/12/202423:13:00(Xem: 4695)

IMG_1810
 
Đọc xong email của Cathy, Khôi mỉm cười khoan khoái, bước xuống phòng khách pha cho mình ly cà phê nóng của buổi sáng cuối tuần. Trời đã cuối Thu, những chiếc lá khô cuối cùng lao xao đuổi nhau theo những cơn gió nhẹ trên mặt đường, tạo nên một âm thanh vui tai. Hàng cây khô trụi lá khẳng khiu đang rung rinh trước gió, chuẩn bị cho những ngày đông dài sắp tới. Khung cảnh thật bình yên. Bình yên như tâm hồn Khôi sau những tháng ngày băn khoăn, ray rứt đã qua.
 
Cách đây gần ba mươi năm, Khôi rời trại tỵ nạn Thailand đến định cư ở Canada. Những người tỵ nạn đến trại sau ngày đóng cửa như Khôi đã phải trải qua nhiều năm dài đợi chờ lây lất nơi đất tạm dung, nên khi vừa đặt chân đến xứ sở tự do, Khôi đã lao vào học hành để đền bù lại những thời gian dài lãng phí ở Thailand. Không giống như nhiều người khác vừa đi học vừa đi làm, với quyết tâm mạnh mẽ, Khôi muốn mình có một tương lai vững chắc để có thể lo được cho gia đình ở Việt Nam cũng như tạo dựng được hạnh phúc cho riêng mình sau này. Cuối cùng, Khôi cũng gặt hái được những trái ngọt thành quả của mình, trở thành một nha sỹ, có một cuộc sống “hình mẫu” đáng mơ ước của những con người thành đạt trên xứ người.
 
Khôi cũng đã bảo lãnh cha mẹ qua đây đoàn tụ, lo cho các em ổn đinh. Tổ ấm của Khôi cũng chẳng có gì để phàn nàn, một cô vợ xinh đẹp có một văn phòng kế toán riêng và đứa con gái ngoan ngoãn vừa bước vào đại học. Căn nhà của vợ chồng Khôi, không to lớn nguy nga, nhưng cũng đủ cho bất cứ ai bước vào cũng buông lời khen ngợi. Hàng năm, gia đình Khôi cũng biết tận hưởng những ngày vacation tuyệt vời ở khắp mọi nơi, từ những thắng cảnh đẹp ở Canada, đến nước Mỹ láng giềng, tắm biển Hawaii, xuống miền nam Mexico nắng cháy, đi các chuyến cruise, và mới đây nhất cũng đã du lịch khắp các nước Châu Á Châu Âu.
 
Cuộc sống no đủ, vợ chồng Khôi cũng thường đóng góp cho những công việc từ thiện, dù là của người bản xứ Canada hay của người đồng hương. Những lần quyên góp gây quỹ trong cộng đồng Khôi đều có mặt, cuối năm Giáng Sinh về thì đóng góp cho Hội Red Cross, World Vision, và những đóng góp cho những người nghèo khó tàn tật ở Việt Nam. Với Khôi, là người Công Giáo, không những vì làm theo giáo lý đã được học khi còn nhỏ, mà đơn giản là sự công bằng, khi mình may mắn có đời sống sung túc thì chia sẻ cho những người không có cơ hội và kém may mắn. Hơn nữa, Khôi cũng từng có những ngày thơ ấu thiếu thốn bởi đất nước chiến tranh, và nhất là hơn bốn năm trường sống trong trại tỵ nạn Thailand, những ngày thật gian khó, sống trong chờ đợi mỏi mòn và tuyệt vọng, nếu không có UNHCR (Cao ủy Tỵ nạn liên hợp quốc), và những người thiện nguyện viên người ngoại quốc và người Thái, thì những người tỵ nạn Việt Nam sẽ ra sao? Hành trang khi lên máy bay rời khỏi xứ Thái của Khôi vẫn đậm sâu những tình cảm thân ái, không biên giới của những người bạn thiện nguyện viên mà Khôi đã có dịp gắn bó.
 
Khôi đến trại ở tuổi hai mươi bốn, một mình không thân nhân đi theo, cũng chẳng có người thân ở ngoại quốc tiếp tế như nhiều người khác trong trại, Khôi bị rơi vào nhóm “con bà phước” ở trại, tức là sống nhờ vào cơm Cao Ủy vốn chẳng dư giả gì. Nhờ may mắn có chút vốn liếng tiếng Anh nên Khôi xin vào làm việc thiện nguyện trong trại, kiếm thêm chút đỉnh tiền lương tượng trưng và cũng là cơ hội học thêm tiếng Anh. Nhưng quả thực, cái mà Khôi học hỏi được thật vô giá, đã biến đổi con người Khôi phải biết sống vươn lên, giúp Khôi trưởng thành hơn rất nhiều.
 
Những người thiện nguyện trong tổ chức YWAM (Youth With A Mision) là những người đến từ nhiều nước khác nhau:  Úc, Tân tây Lan, England, South Africa nhưng họ giống nhau ở trái tim nhiệt huyết, quên đi cuộc sống cá nhân, vượt nửa quả địa cầu để sống với người tỵ nạn, nâng đỡ tinh thần và chia sẻ buồn vui với người tỵ nạn.
 
Tuy mang tên Youth With A Mision nhưng các thiện nguyện viên có nhiều lứa tuổi khác nhau, trong đó Khôi thân nhất với Cathy vì cùng trẻ tuổi, lại cùng phụ trách trường dạy Việt Ngữ và Anh Ngữ cho các trẻ em tỵ nạn. Ngoài giờ lên lớp, Khôi hay có những buổi đi chơi ăn uống, tâm tình với cô bạn gái này. Qua Cathy, Khôi càng khâm phục và mến yêu những người thiện nguyện mà Khôi đã có dịp tiếp xúc trong trại. Từ bà già Rainie với giọng Úc khó nghe, cô Sue trong cao ủy xã hội, Shane trong bưu điện, Mark làm trong bệnh viện … Họ làm việc trong trại cho đến chiều thì trở về khu nhà cao ủy dành cho họ ngoài thị trấn, cơm ăn đạm bạc, mọi nhu cầu đều đơn giản tối đa. Cuối tuần ngày nghỉ, họ lại vào trại làm lễ ở nhà thờ, chia sẻ Kinh Thánh, đi thăm viếng người ốm đau, trầm cảm, neo đơn.
 
Khôi vẫn còn ấn tượng những ngày gần lễ Giáng Sinh, sau giờ làm việc, những người thiện nguyện ra về như thường lệ, nhưng khoảng 6-7 giờ tối họ lại xin trở vào trại, đi thành một nhóm, có dân tỵ nạn hiếu kỳ nối đuôi theo sau, đi vòng quanh các khu nhà trong trại, vừa đi vừa hát những bài Thánh Ca, phân phát những viên kẹo nho nhỏ cho trẻ em, những chiếc bánh cookies cho người lớn, mà sau này Cathy cho Khôi biết những chi phí đó đều do tiền túi của từng cá nhân bỏ ra, vì Cao Ủy chỉ cho họ chỗ ăn ở hàng tháng, còn mọi nhu cầu sa xỉ khác đều phải tự lo. Đó là những “Christmas Carol” đầu tiên trong đời mà Khôi được biết và sẽ không bao giờ quên.
 
Buổi chiều ở trại tỵ nạn rộn ràng nhất ở khu phát nước, mọi người tấp nập đến lãnh nước về nhà giặt giũ cơm nước. Khôi còn nhớ có lần nhóm bà Rannie, cô Sue đi ngang qua khu phát nước, những khuôn mặt quen thuộc nhận ra hai bà liền í ới gọi tên, họ cũng đáp lại dân tỵ nạn bằng những cái vẫy tay và nụ cười thân thiện. Có mấy đứa bé nghịch nước chạy loăng quăng làm vấy sình lên áo quần của cô Sue, vậy mà cô vẫn mỉm cười, ngồi xuống ôm ấp nựng nịu mấy đứa trẻ. Rồi những sáng chúa nhật sau giờ lễ, họ đi thăm những bệnh nhân trong bệnh viện, hỏi thăm, ủi an rất chân thành. Khôi đã nhiều lần xúc động và tự hỏi, họ là những người không cùng dòng máu, không cùng màu da, mà họ đối xử yêu thương với người tỵ nạn Việt Nam như thế, trong khi ở trại, đã có những đồng hương từng đánh nhau chỉ vì những tranh chấp nhỏ nhen.
 
Nhưng có lẽ kỷ niệm êm ái nhất và đẹp nhất là những tháng ngày gắn bó thân tình với Cathy, cô gái thiện nguyện viên xinh đẹp, dễ thương và nhỏ tuổi nhất trong nhóm YWAM.

Cathy bằng tuổi Khôi, cô mất mẹ từ khi lên mười, ba của cô là chủ tịch của hội thiện nguyện giúp người tỵ nạn ở Thailand. Cathy vừa tốt nghiệp đại học và đi theo con đường thiện nguyện của ba. Vì Khôi và Cathy cùng phụ trách trường học Việt Ngữ nên gặp gỡ nhau hàng ngày. Những giờ nghỉ trưa, đôi khi Cathy ở lại trại, theo Khôi và nhóm bạn Việt Nam về khu nhà Khôi ăn cơm Việt Nam. Cathy thích thú học thêm tiếng nói và văn hóa Việt, cũng như Khôi học thêm tiếng Anh từ Cathy. Sau bữa cơm, để trốn cái nắng cháy da của xứ Thái, hai người hay tản bộ trong khu trường học, hoặc ngồi nói chuyện dưới bóng mát của hàng cây bông giấy ngay trước văn phòng trường.


Cathy kể cho Khôi nghe những ngày ấu thơ ở quê nhà nơi vùng ngoại ô xa xôi nước Úc, cũng như Khôi kể cho Cathy về đất nước Việt Nam, về nơi chốn mình đã sinh ra, lớn lên và mãi nhớ thương khi phải lìa xa. Có lần Cathy đã khóc nức nở khi nhắc lại kỷ niệm những ngày cuối đời của mẹ mình khi nằm trên giường bệnh, Khôi chỉ biết bối rối nhìn đôi vai cô nàng run nhẹ dưới mái tóc màu hạt dẻ và đôi mắt đỏ hoe ngượng ngùng khi Khôi trao cho cô chiếc khăn lau nước mắt. Mối thân tình này chưa phải là tình yêu, nhưng đó là một tình bạn quá đậm đà khi có những ngày cuối tuần không gặp Cathy thì Khôi thấy thiếu vắng, nhớ nhung, để rồi sáng thứ hai lại nôn nao chờ đón chiếc xe “van” của nhóm thiện nguyện đi vào cổng trại bắt đầu một tuần làm việc mới.
 
Ngày Khôi lên đường đi định cư Canada, trong buổi tiệc tiễn đưa, Cathy tặng Khôi một lọ thủy tinh có một trăm ngôi sao nhỏ xíu do tự tay cô xếp với hy vọng mỗi ngôi sao là một may mắn trên con đường tương lai của Khôi. Mọi người đã cho Khôi một buổi tối tuyệt vời, những tình cảm vô giá làm Khôi nghẹn ngào. Hôm ấy, bên những người bạn Việt Nam và những người bạn  ngoại quốc, Khôi đã rất xúc động nói lời tâm tình từ trong đáy tim:

 “Nếu không có các bạn, chúng tôi đã không vượt qua những tháng ngày gian khổ của trại tỵ nạn. Các bạn đã cho tôi biết về tình yêu, niềm tin và hy vọng trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời! Tôi mong ước sau này sẽ có dịp đi theo bước chân các bạn, dù chỉ là một thời gian ngắn ngủi để đền đáp lại những gì các bạn đã làm cho tôi, cho đồng bào tôi!”.

Rồi Khôi quay qua nắm tay Cathy, nói nhỏ: “Tôi sẽ trở về với các bạn”.
 
Vậy mà bao nhiêu năm qua Khôi chưa làm được lời hứa ấy. Thỉnh thoảng trong những cuộc vui, hoặc đêm về thao thức vì những tháng ngày cũ, Khôi cũng tự trách mình, nhưng rồi dòng xoáy cuộc đời với chuyện cơm áo hàng ngày đã cuốn hút Khôi trở lại, bận rộn liên miên, những kế hoạch, những mục tiêu của vợ chồng con cái vẫn chờ đợi Khôi phải hoàn thành cho tròn nghĩa vụ người chồng người cha trong gia đình. Khôi lại tự nhủ, những đóng góp tiền bạc hàng năm của mình cũng tạm đủ cho lời hứa năm xưa.
 
Nhưng thời gian gần đây, có phải vì tuổi bắt đầu “về già” hay vì còn canh cánh lời hứa đó, mà những cuộc vui, những niềm vui mà Khôi từng tham gia đã không còn hấp dẫn Khôi như trước nữa? Đôi khi, giữa những cuộc vui ồn ào bia rượu, các ca sỹ đang ca hát ầm ỹ cho những người ra sàn nhảy, Khôi chỉ muốn bỏ về nhà, vào căn phòng của mình, uống một ly café, nghe một bản nhạc êm dịu, đọc một cuốn sách yêu thích. Nhẹ nhàng và đơn giản như những đêm tỵ nạn Thailand, có Khôi và mấy người bạn với cây đàn guitar, một bình trà nóng, vài chiếc bánh kẹo và một mảnh sân ngập đầy ánh trăng, cùng nhau tâm tình, ca hát, thậm chí chỉ là im lặng nhìn nhau, vẫn cảm thấy ngọt ngào ý nghĩa của cuộc đời, tình bạn và tình yêu. Khôi bỗng thèm da diết cái thời gian khó khăn, đơn sơ, chan chứa tình người ấy biết bao .
 
Có phải khi cuộc sống nghề nghiệp công danh và gia đình ổn định, không còn gì để mơ ước nữa, thì người ta bắt đầu mệt mỏi và hay hồi tưởng lại quá khứ, nhất là quá khứ gian khổ?

Mùa hè năm ngoái ở Florida, trong khi vợ con nghỉ ngơi tại hotel, Khôi đi dạo biển trong ánh chiều hoàng hôn, một chiếc thuyền con mong manh xa xa tận chân trời đã làm Khôi nhớ lại chuyến vượt biển của mình, con tàu của Khôi cũng cập bến Thailand vào một buổi chiều muộn như thế, và bao nhiêu kỷ niệm vui buồn lại ùa về, tươi sáng sống động như tuổi trẻ ngày đó của anh.

Có đêm Khôi còn nằm mơ thấy mình đang nằm trong bệnh viện của trại tỵ nạn, có những khuôn mặt thân quen đang ngồi xung quanh ân cần thăm hỏi, như Cathy, như Sue, như Mark, như bà Rannie, và có cả giấc mơ rõ ràng ngày cuối năm lạnh lẽo năm ấy, Khôi và các thầy cô giáo Việt Nam ở trường học đãi nhóm thiện nguyện một bữa bánh xèo, họ ăn say mê hết mình khen ngon, Khôi còn giải thích cho Cathy biết, sở dĩ có tên “bánh xèo” vì khi đổ bột vào chảo tạo nên âm thanh “xèo xèo” làm cô ấy cười hồn nhiên như đứa trẻ.
 
                                    .............................................................................
 
Mới đây qua facebook Khôi liên lạc được với một người bạn tỵ nạn cũ hiện đang ở bên Úc. Anh bạn này trong chuyến về thăm Thailand đã bắt liên lạc được với vài người trong nhóm thiện nguyện YWAM cũ, trong đó có Cathy. Người bạn cũng cho Khôi biết nhóm YWAM ngày xưa, ngoại trừ mấy người đã quá già, còn tất cả những người còn lại vẫn đi khắp nơi giúp người tỵ nạn. Trời ơi, bao nhiêu năm qua, bao nhiêu người tỵ nạn như Khôi đã thay đổi cuộc đời sau khi rời trại tỵ nạn, vậy mà họ vẫn miệt mài với đời hiến thân, hy sinh vì lý tưởng cao đẹp của họ ư? Khôi bỗng thấy buồn, xấu hổ vì lời hứa của mình cũng chỉ là môi miệng của một giây phút cao hứng bất chợt.
 
Khôi đã mất hơn một tháng chìm đắm trong ray rứt, băn khoăn, hồi tưởng lại những tháng ngày gian khổ nhưng đầy ý nghĩa xưa kia, rồi email cho Cathy. Thật xúc động khi Cathy vui mừng sung sướng khi nhận được mail của Khôi. Hai người nhắc lại bao nhiêu kỷ niệm cũ.
 
Cathy cho biết đã lập gia đình, anh ấy tên John, có cùng lý tưởng với Cathy, hai người không có con và quyết định tiếp tục vui sống đời thiện nguyện đi khắp đó đây. Hiện vợ chồng Cathy đang ở Miến Điện, một đất nước triền miên trong khó khăn và nội chiến dưới chính phủ quân sự độc tài. Gần đây đất nước này đã có chút đổi mới, canh tân trong nội các và quốc hội, mở cửa thân thiện với thế giới phương tây để mưu cầu sự phát triển cho dân tộc. Khi Khôi ngỏ lời muốn đến đó làm thiện nguyện, Cathy mừng rỡ cho biết họ đang rất cần nhiều bác sỹ, nha sỹ đến khám bệnh, chữa răng cho những người dân nghèo ở vùng nông thôn và ngoại ô thủ đô Yangon. Thời gian ít nhất cho thiện nguyện viên là từ sáu tháng cho đến một năm, tiền vé khứ hồi tự lo, cao ủy liên hợp quốc chỉ lo phần ăn ở.

Khôi bàn với vợ, lúc đầu cô ấy phản đối yếu ớt, nhưng khi Khôi kể về những kỷ niệm thời còn ở tỵ nạn Thailand, cô ấy đã thông cảm và ủng hộ cho Khôi đi một năm, vừa thực hiện lời hứa xưa kia, vừa gặp gỡ lại bạn bè cũ, coi như một chuyến du lịch nghỉ ngơi sau bao nhiêu năm làm việc.
 
Đã có biết bao nhiêu chuyến đi trong đời, nhưng chưa có chuyến đi nào làm Khôi nao nức bồi hồi như chuyến đi này. Vẫn biết ở xứ này thời gian trôi qua vun vút, nhưng sao Khôi vẫn cứ mong thời gian qua mau hơn nữa, vì như email vừa rồi của Cathy vừa khẳng định lại, mọi việc đã thu xếp xong, tức là một tuần sau ngày lễ New Year năm nay, Khôi sẽ lên đường!
 
KIM LOAN 
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.