Hôm nay,  

Vancouver Ký Sự

10/12/202421:12:00(Xem: 6116)

                                           

BokThan
HAI BOK TÂM VÀ BOK THÂN (đang nói) TẠI BUỔI FUND RAISING Ở NHÀ HÀNG VANCOUVER, CANADA

 

Trời Vancouver đang cuối mùa hè, sắp vào Thu, vẫn còn giữ lại một chút nóng ấm của mùa qua; thời khắc giao mùa đem đến một khung cảnh lãng mạn đầy thi vị và quyến rũ. Bầu trời xanh trong điểm xuyết những đám mây trắng nhẹ nhàng trôi lơ lửng. Ánh nắng vàng nhạt của buổi chiều tà chiếu nghiêng qua kẽ lá những tia nắng lung linh trên mặt hồ lấp lánh như những hạt kim cương nhỏ đính trên áo nàng Thu.

Hàng cây hai bên đường bắt đầu khoác lên mình chiếc áo mới với các gam màu vàng nhạt, màu cam, báo hiệu một mùa thay lá sắp tới. Những cơn gió muộn màng thoảng qua xua đi cái nóng còn sót lại của mùa hè oi bức. Gió mang theo hương thơm dịu dàng của hoa cỏ và không khí trong lành của cây rừng hai bên đường xa lộ dẫn về Vancouver. Mặt trời lặn dần sau núi, ánh hoàng hôn rực rỡ phủ lên vạn vật một sắc màu cam ấm áp báo hiệu một mùa lá rụng sắp đến tạo nên một cảnh sắc tuyệt vời và không gian tĩnh lặng, bình yên trong từng nhịp thở của trái tim.

Theo thông lệ trước đây, hằng năm vào đầu tháng 9, CVKer 65 Bok Thân có tổ chức buổi tiệc gây quỹ cho địa phận Kontum. Năm nào Bok Thân cũng thành công mỹ mãn, gởi về quê nhà nhiều số tiền lớn lao dùng cho các hoạt động bác ái của địa phận. Sau dịch cúm Tàu phù, kinh tế trì trệ, dân chúng cũng ngại đám đông nên Bok Thân phải uyển chuyển tổ chức 2 năm một lần; lần này là Đêm Tình Thương lần thứ Sáu.

Mặc dù có cả cộng đoàn giáo xứ hỗ trợ sau lưng trong việc tổ chức tiệc gây quỹ, một công việc không dễ dàng chút nào, Bok Thân vẫn là người cầm chịch, đứng mũi chịu sào, tất bật liên lạc, chạy tới chạy lui mệt phờ cả râu. Cũng may Bok Thân “mày râu nhẵn nhụi, áo quần bảnh bao” nên ai cũng tưởng ngài phẻ re như con bò … không kéo xe! Vậy mà Bok vẫn lo lắng cho anh em CVKers chỗ ăn ở, đi đứng thế nào cho thuận tiện và thoải mái.

Sự tham gia của anh em CVKers là một động lực rất lớn, khích lệ tinh thần mạnh mẽ, là một “moral support”, một viên vitamin tăng lực thần kỳ giúp Bok Thân như được lên giây cót, phấn chấn tinh thần và thể xác đang hao mòn theo thời gian. Nhìn gương mặt Bok Thân sáng lên, nụ cười thật tươi khi ngài bắt tay từng anh em một. Anh em CVKers thì khỏi nói, ai nấy đều thích thú được góp phần vào ngày đặc biệt này và nhất là có dịp gặp nhau hàn huyên tâm sự và nói dóc cho sướng sau bao năm không hoặc chưa được gặp nhau.

Thật xúc động và tràn đầy hào khí khi quan khách đi dự tiệc gây quỹ cho Kontum, lại được gặp gỡ những “công dân” Kontum một thời, khiến buổi gây quỹ thêm phần ý nghĩa biết bao nhiêu. Các bô lão, Kontum senior citizen đứng trên sân khấu mở màn, đồng ca bài “Lạy Chúa, chúng con về từ bốn phương trời, lạy Chúa chúng con về từ khắp thôn làng …”. Lời ca như một làn gió mới đem đến sự thôi thúc, rộn rã trong tâm hồn tất cả khách tham dự đêm hôm đó. Ca trưởng Ngô Đình Hòa quả thật xuất sắc khiến khán thính giả vô cùng thích thú với 2 bài đồng ca của dân CVK Kontum.

Phái đoàn CVKers đi phó hội năm nay cũng khá hùng hậu, tổng số 19 người. Đầu tiên là các “võ lâm kiếm khách” đến từ miền Trung Tây gồm Bok Tâm Oklahoma dẫn đầu và hai cặp vợ chồng huynh đệ CVK 69, Hiền-Đạm và Hùng-Lan từ miền viễn Tây Hoa Kỳ, tiểu bang của các chàng chăn bò bắn súng nhanh như chớp. Trời xui đất khiến làm sao, trong chuyến bay trung chuyển, Bok Tâm và nhóm sư huynh đệ, không hẹn, lại gặp nhau trên chuyến bay từ Dallas đến Seattle, Washington. Đây là dấu hiệu báo trước buổi đại hội sẽ đầu xuôi đuôi lọt.

Bok Tâm về hưu đã gần 3 năm nên ngài tha hồ sống kiếp lãng du đây đó. Ở đâu hú một tiếng là ngài đáp lời “tú đờ suỵt”. Bok tâm sự với anh em rằng bây giờ hưu rồi, ngoài việc đi giúp các giáo họ lẻ, ngài vẫn vui thích được sống bình yên, khỏe mạnh, du lịch đây đó, ăn ngon và đặc biệt là uống cũng phải thật ngon mới OK. 

Phái đoàn thứ hai từ miền Nam California gồm vợ chồng CVKer 69 Thành-Lan và vợ chồng CVK 70 Thiên-Thêu, sẽ bay thẳng đến Vancouver, Canada, mà không ghé Seattle. Trong lúc nhóm này đang đằng vân giá vũ thì CVKer 67 Cửu, bí danh là anh Chín Đờn Cò, đã đáp xuống Seattle từ rất sớm, đang rung đùi, ngồi thưởng thức mấy lon bia ướp lạnh ở phi trường, mắt dõi theo những bóng hồng đây đó. Anh Chín vốn tính vui vẻ, dễ dãi nên “tới đâu thì tới”, mỗ cứ tà tà “èn doi’ từng giọt đắng trên môi.

Kiến trúc sư của toàn chuyến đi và cũng là đương kim võ lâm minh chủ của cả nhóm hiệp khách giang hồ từ xứ Kỳ Hoa là CVKer 66 Đậu Quang Đại đã có mặt tại Seattle từ mấy hôm trước, chuẩn bị nghênh đón tất cả quần hùng tại phi tràng SeaTac, sẵn sàng một chiếc full-size Van 15 chỗ ngồi. Khi tập hợp đầy đủ lực lượng, cả nhóm sẽ trực chỉ hướng Bắc, El Norte, tiến thẳng đến nơi phó hội. Bỏ nhỏ anh em CVKers một câu, anh Đại đang bí mật tham gia một “chiến dịch đặc biệt”, không giống như “special operation” của Uncle Putox bên xứ Nga La Tư, cho nên anh đến Seattle sớm hơn mọi người, khi nào thuận tiện, sẽ bật mí với anh em sau.

Riêng hai vợ chồng CVKer 70 Đức-Tâm bay riêng vì đang rong chơi với mấy anh em cọc chèo khác, tiếng Mẽo gọi là đám “The In-law”, mà tôi gọi là “The Out-law” thì đúng hơn vì đám này khi chịu quậy thì tới bến luôn. Đức-Tâm tách khỏi “đám ngoài vòng pháp luật” xong, cũng gia nhập đoàn lữ hành tiến lên phía Bắc. Dọc đường, anh em ghé đón vợ chồng anh Hòa-Liên CVKer 69, dân “lô cồ”, thổ địa ở Seattle.

Nhóm cuối cùng, chúng tôi đã khởi hành rất sớm từ Seattle đi Vancouver gồm vợ chồng CVKer 71 Hùng Phong-Ngọc Diệp, dân Seattle, và vợ chồng tôi, CVKer 70 Sáu Cam-Chiêu Hòa. Chúng tôi từ vùng hoang mạc, đồng khô cỏ cháy Arizona, chó ăn đá, gà … không có muối mà ăn, đã bay đến trước đó một ngày, thăm Phong, thằng bạn thuở hàn vi ở Pleiku, rồi tranh thủ đi cỡi ngựa xem hoa, sau đó mới nhắm phía Bắc mà tiến. Dọc đường đi, chúng tôi còn phải ghé một tiền trạm mà Bok Tâm đã dặn dò, để mang theo một số hiện vật bán đấu giá cho buổi gây quỹ.

Tất cả chúng tôi đều tiến lên phía Bắc trực chỉ thành phố Surrey, Vancouver, giáo xứ Bernadette của Bok Thân trong cùng ngày thứ Sáu, kẻ trước người sau. Chiều hôm đó, phái đoàn xe Van đến trễ nhất vì bị “đậu phộng”, đi lạc, do cái phone của bác tài Đại-Đậu, đang ở xứ nóng lên xứ lạnh nên nó cứ chạy vòng vòng, không chịu chạy thẳng dùm cho bà con nhờ. Thêm nữa, trên xe lắm người, nhiều ý, trên đường thiên lý, hay bị cái bệnh dễ lây “TO PEE or not TO PEE”.

Anh em gặp nhau, tay bắt mặt mừng, vui hơn Tết. Năm nay kinh tế eo hẹp, lạm phát kinh hồn, bok Thân không còn lobster, nhưng bù lại, giáo dân của ngài chiêu đãi anh em một bữa thịnh soạn không thua nhà hàng bao nhiêu.



Ăn uống xong, ca trưởng Hòa 69 mời anh em “retouche” lại những giọng ca đang bị rỉ sét lâu năm, bị nhét dưới đáy rương, bây giờ móc ra, chà giấy nhám, xài lại nên âm thanh có hơi bị rè rè. Nghe hát xong, Bok Tâm phán “not bad, not bad”. Bok Tâm khen ca trưởng không tiếc lời, ngài phán rằng nhờ làm ca trưởng nên chàng zớt luôn cô ca viên xinh đẹp nhất của giáo xứ Phương Quý, bây giờ là bà xã của anh, chị Liên. Cả hai cho ra đời mấy cô con gái “zịu”, cô nào giống cha mẹ đều đẹp gái hết ráo. Có một cô đi tu, nên khi đến nhà thờ, người ta hay chào ông bà cố. CVKers nào, nhanh chân thì làm sui với anh chị Hòa-Liên, chậm chân cũng … vẫn còn cô Út.

Chia tay nhau cũng gần nửa đêm, hẹn ngày mai đi thăm một góc Vancouver, sẽ ghé cầu treo Lynn Canyon Park. Cây cầu này nhỏ hơn cầu treo Capilano nhưng “free” và phong cảnh còn hoang sơ, chưa bị thương mại hóa; trong khi cầu Capilano to hơn và “chém đẹp” hơn, mỗi người $71.95. Sau một ngày đi bộ rã rời đôi chân, phái đoàn lo về sớm, trở lại 2 căn nhà AirBNB, tắm rửa, sửa soạn, nhất là để các phu nhân còn make-up và sửa soạn xiêm áo cho kịp giờ.

Đêm đại tiệc gây quỹ Tình Thương 6 diễn ra như mọi năm, khách tham dự lên đến hơn 500 người, chật kín nhà hàng, cho biết sẽ thành công như mong đợi. Bok Thân bận rộn tối tăm mặt mày và sau khi khách về hết, ngài phải ở lại cùng hai thiện nguyện viên lo phần dọn dẹp đến quá nửa đêm mới về.

Ngày Chúa Nhật tiếp theo, sau khi Google địa điểm, bác tài Đại-Đậu đề nghị đi khám phá một góc khác của Vancouver là bến thuyền của bán đảo nhỏ ở khu trung tâm. Đi dạo bến cảng, nghe nhạc sống, ăn uống, rồi mướn thuyền đi trên sông. Khi ai nấy an vị trên xe Van xong, máy nổ rồi mà bác tài vẫn nhìn quanh quất trên dashboard xe như tìm kiếm gì đó, cặp thiên lý nhãn đảo qua lại nhiều lần, buông một tiếng thở dài não nuột hỏi tên co-pilot ngồi kế bên là Sáu Cam:

-          Hey, Sáu Cam có biết cái lỗ… đổ xăng nó nằm ở chỗ nào không?

-          Anh mần tài xế mấy bữa nay mà không biết hay sao?

-          Chưa hết xăng nên nỏ biết nó nằm chỗ mô!

Thế là Sáu Cam bốc cái phone lên, hỏi bác Google ngay lập tức. Ngồi sau lưng là hai anh em Hiền, Hùng 69, nghe lỏm câu chuyện, họ cũng Google nhanh không kém. Cả hai người đều có cùng một kết quả mà chẳng giúp được gì vì Google diễn tả rất là mơ hồ và rất là chung chung. Bè lũ “tứ nhân bang” vội xuống xe, chia nhau đi tam phương, tứ hướng, vòng quanh chiếc van, 4 cặp mắt như những tia Laser, soi rọi từng centimet trên thân xe, cố tìm ra chỗ đổ xăng nằm nơi nao. Kiểu này, con kiến cũng không lọt qua mắt chúng tôi. Quái lạ thật! Vẫn không thấy. Chúng tôi kéo cánh cửa xe về phía sau, vẫn không thấy; tôi ra đằng sau, đưa tay nhấc bảng số xe coi phía sau nó có núp phía sau không. Thất bại toàn tập.

Đang chán nản và tuyệt vọng vì xe gần hết xăng mà không biết phải đổ xăng ở chỗ nào trên xe. Nếu uống xăng, để xe chạy được, tôi cũng dám uống lắm chứ chẳng chơi. Chợt mấy lệnh bà ngồi trên xe chỉ vào một miếng sắt nhỏ ngay phía trong, đằng trước, chỗ tiếp giáp giữa cửa xe và khung thân xe, nơi mà nãy giờ chẳng ai để ý vì nó không giống tí ti ông cụ nào với cái nắp che bình xăng thường thấy. Đưa tay bật lên, bên dưới là nắp bình xăng. Giời ạ! Phi ní lô đia (hết nước nói).

Cha nội nào thiết kế chỗ đổ xăng của chiếc xe Ford này, xứng đáng lãnh giải “Designer of the Year”. Thật là dốt như quan huyện! Mất cả 15 phút mới kiếm ra; trong khi, đơn sơ như các bà, chẳng biết tí ti gì về xe cộ, thì họ lại tìm ra. Trong trường hợp này, tôi xin phép các đấng bậc sửa lại một câu trong Kinh Thánh Tân Ước: Hãy trở nên đơn sơ nhưcác bà (những trẻ nhỏ), thì các ngươi sẽ tìm được nắp bình xăng (nước trời). Matthew 19, 14.

Khi điều khiển một chiếc drone trên chiến trường, người phi công muốn bắn 1 trái hỏa tiễn, chỉ cần lật cái nắp nhựa trong veo có ghi chữ màu đỏ “FIRE”, nhấn cái nút đỏ nằm phía dưới là… xong phim. Vậy mà chiếc xe van khó ưa này lại làm 4 tên mặt mũi sáng sủa đến tối sủa như chúng tôi, phải điên cái đầu chỉ vì 1 cái lỗ… đổ xăng. Than ôi! Gã designer đáng nguyền rủa này chỉ cần in cái ký hiệu quốc tế “GASOLINE” hay hình cây xăng ngay bên trên thì người dốt như tôi cũng sẽ ngộ ra ngay cái mình muốn tìm. Đời nó thế các cụ ạ, bài học rút ra: muốn có được cái lỗ, các cụ phải ra công đào bới.

Mấy ngày đi chơi bên nhau, tham dự buổi gây quỹ, cùng dâng thánh lễ bỏ túi do Bok Tâm chủ tế, hàn huyên tâm sự, nhắc lại chuyện hồi xửa hồi xưa mà ai nấy đều bâng khuâng tiếc nuối. Ngồi bên nhau với cây đàn guitar, hát những bài tình ca nhẹ nhàng, không gian ấm cúng gợi lại biết bao kỷ niệm thân thương. Những mảnh vụn ký ức chợt ùa về đưa chúng tôi bập bềnh sống lại thuở học trò ngày xưa dưới mái trường tiểu chủng viện thừa sai Kontum.

Ngày chia tay cũng đến, chúng tôi cố níu kéo thêm khi trở lại Seattle, ghé nhà Phong, thưởng thức tài nấu nướng tuyệt ngon của Diệp buổi trưa hôm đó. Nói ngoài đề một chút, nếu Diệp chịu mở nhà hàng thì thằng bạn nối khố của tôi đã thành triệu phú từ lâu rồi, nhưng số nó chưa được vinh danh trong Forbes List vì nó nói cày mửa cả mật ở Boeing mà vẫn còn thiếu $1 nữa mới có trong Saving Account đủ 1 triệu. Đúng là số con rệp!

Chưa kịp tiêu hóa xong, chiều cùng ngày, phái đoàn lại lại ghé nhà ca trưởng Hòa-Liên với món ăn nhẹ là một nồi lẩu cá Sturgeon, một loại cá hiếm, thịt trắng phau, đậm đà, rất ngon, chỉ có sụn nhưng không có xương. Thời vua chúa ở Việt Nam còn không có cá này để mà ăn. Bây giờ phe ta cứ việc ăn “vô tư”.

Sau bữa ăn, tới giờ ma men Thần Tửu nhập, anh em bắt đầu “hát tiếng lạ”, với cây đàn thùng của Đại-Đậu, những bản tình ca nhạc Pháp du dương tỏa lan trong không gian ấm cúng căn nhà ca trưởng Hòa-Liên. Bok Tâm hôm nay như sống lại với những ngày “anh đàn, em hát” ngày xưa lúc mới tới Mỹ, khi ngài đang phân vân giữa hai chữ Tu và Hú; nhưng rồi khi cầm cây đàn, lại than những ngón tay sao cứng ngắt không chạy được trên phím như những “ngày xưa Hoàng Thị”. Chỉ biết than thở ôi, thời oanh liệt nay còn đâu!

Buổi tối cuối cùng chia tay với Bok Thân ở Vancouver, ngài tâm sự rằng không biết có sức tổ chức thêm lần nữa hay không. Cố kiếm thêm một ít cho người nghèo và các em mồ côi ở Kontum trước khi quy ẩn về vườn, mà chỉ sợ lực bất tòng tâm. Nhìn lại anh em, ai cũng đầu đã bạc, mỏi gối chồn chân đã nhiều. Tuy nhiên, vài anh em nhận xét Bok Thân còn “ngon cơm” lắm, chắc chắn sẽ làm được. On verra! Chia tay nhau ra về trong lưu luyến, ai cũng biết sẽ còn lần tới nữa vào tháng 9, năm 2026.

NGUYỄN VĂN TỚI CVKer 70.

Chú thích: Bok tiếng Thượng Bahnar là Father/linh mục.

CVKer: Người tu học ở Chủng Viện Kontum.

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.