Hôm nay,  

Sơn Tây Ngày Về

10/12/202423:10:00(Xem: 4048)
thành cổ sơn tây
Cửa Bắc Thành Cổ. Ảnh baotanglichsu.vn

 

(để tưởng nhớ đến Bố nhân ngày giỗ thứ 10: 12/20/2024)

Chuyến đi Sơn Tây dự tính cả năm nhưng mãi đến cuối thu 2010 chúng tôi mới thực hiện được. Bố tôi đã hơn 100 tuổi nhưng thể lực tương đối vẫn còn khoẻ do đó tôi dắt Bố về thăm lại cố hương trước khi có cơn gió mạnh nào đó chưa kịp thổi tắt ngọn nến vàng.

Bố mẹ tôi sống tuổi thơ ở miền quê nhỏ bé này, cùng đi học, đi làm, yêu nhau rồi lập gia đình và sau cùng di chuyển về thủ đô. Tôi sanh tại Hà Nội nhưng vì quê nội và ngoại đều gốc Sơn Tây nên mỗi khi nghe câu thơ “Quê hương là chùm khế ngọt” tôi hình dung ngay đến Sơn Tây mặc dù địa danh hữu tình này chỉ sống trong tâm khảm qua những câu chuyện gia đình.

Ngày về mang nhiều ý nghĩa, Bố sẽ thăm lại miếng đất cũ của gia đình, tuy đã 100 năm nhưng vẫn còn đó! Tôi muốn ngồi nghe Bố kể lại chuyện tuổi thơ và cả chuyện 100 năm của Bố với Mẹ nơi quê cũ... Hy vọng Bố còn khả năng nhớ lại kỷ niệm đã tròn 1 thế kỷ! Sự việc đó trên thực tế hẳn cũng không dễ dàng.

Từ Hà Nội theo quốc lộ 32 đi về hướng Tây Bắc, khoảng 40 cây số hơn 1 tiếng đồng hồ chúng tôi đến Sơn Tây. Trung tâm thị xã là Thành Cổ, tọa lạc trên miếng đất vuông, bờ tường cao xây bằng đá ong. Đền Vọng Cung hay còn gọi là Điện Kiến Thiên ở giữa Thành được cất từ thời vua Minh Mạng thứ III để hàng năm cúng trời đất cho quốc thái dân an. Những năm chiến tranh, quan quân cố thủ trong Thành vì được bảo vệ bên ngoài bởi 1 con hào vừa dài vừa sâu. Hiện nay vẫn còn chứng tích và nước sông hào Tích Giang bao thế kỷ vẫn êm đềm chảy quanh.

Ở Sơn Tây, tôi là khách lạ nhưng mang tâm trạng sâu đậm như người trở về nguồn cội. Đầu tiên tôi tìm mua tấm bản đồ tỉnh lỵ nhưng không ai bán, họ chỉ dẫn địa điểm Thành Cổ rồi theo 4 hướng Đông Tây Nam Bắc của hình vuông ấy là sẽ tìm ra mọi nơi. Hướng Nam đối diện với phố Quang Trung còn gọi là Cửa Tiền, Cửa Hậu ở hướng Bắc có phố Lê Lợi và nếu đi thẳng đến cuối đường sẽ gặp sông Hồng, hướng Đông là Cửa Tả nhìn ra chợ Nghệ và cuối cùng hướng Tây hay Cửa Hữu có phố Ngô Quyền. Cấu trúc đặc biệt này làm tôi liên tưởng đến thành phố New Haven thuộc bang Connecticut nơi có trường đại học Yale. New Haven cũng bắt đầu từ miếng đất vuông ở giữa tỉnh gọi là New Haven Green rồi tất cả đường phố hay cơ sở đều xây ngang dọc chung quanh giống như Thành Cổ Sơn Tây.

Bố Mẹ tôi lúc bé sống với Ông Bà ở Cửa Hậu, từ đó lại đưọc phân chia ra bốn khu: Hậu An, Hậu Ninh, Hậu Bình, Hậu Tĩnh. Gia đình Ông Bà ở phố Hậu An, lúc đó Bố Mẹ tôi là những đứa trẻ học trường làng. Hiện nay, nhà cửa ở khu phố này đã xây mới lại, chỉ còn 2, 3 căn lụp sụp, cửa ngõ xiêu vẹo, chắc chẳng bao lâu nữa cũng phải đập đổ nhưng đặc biệt ngôi chùa Hậu An vẫn đẹp, kiên cố, ngạo nghễ như thách đố với thời gian. Chùa toạ lạc ngay khu đất xưa, được bảo trì nên vẫn giữ được nét cổ kính, trang nghiêm. Phố Hậu An bây giờ đổi thành Lê Lai, cắt ngang phố chính Lê Lợi. Ở đây có tiệm phở Xê, nghe đồn ngon và rẻ nhất Sơn Tây. Ông Xê khi còn sống đạp xích lô, chán nghề nên mở tiệm phở, bây giờ giao cho vợ con nhưng quá đông khách nên chỉ làm đến giữa trưa là đóng cửa. Tiệm phở không có bảng hiệu nhưng cả tỉnh ai cũng biết.

Mỗi sáng tôi đi bộ với Bố ăn điểm tâm phở Xê hay bánh cuốn tráng tay rồi đi bộ đến quán cà phê gần ngôi chùa cổ, khu đất xưa của Ông Bà tổ tiên. Quán có một bàn nhỏ, đối diện với phố chợ. Ngồi bên nhau, nhiều lần tôi thấy Bố nhìn xa xăm, chẳng nói lời nào vì kỷ niệm quá dầy hay nghẹn ngào do tất cả đã lùi vào dĩ vãng hoặc đắn đo chẳng biết bắt đầu câu chuyện đời mình từ đâu? Bố thích hương vị cà phê đen, tôi để ý những lúc yên lặng, Bố hớp một ngụm đắng như muốn vơi đi nỗi buồn tha hương, nỗi buồn phu thê nay đã nghìn trùng xa cách... Tôi bỏ thuốc lá đã 10 năm nhưng hôm nay, tự nhiên tay quơ lấy bao thuốc trên bàn và đốt lúc nào không hay!

Giờ phút lịch sử này quay lại từ 100 năm, chẳng biết Bố đang nghĩ gì? Tôi thầm biết mình may mắn có đủ điều kiện, cả thời gian và sức khoẻ, giống như cá hồi bơi ngược giòng trở về nguồn cội. Hơn thế nữa, tôi còn được ngồi cạnh Bố già “Người về từ trăm năm” trên mảnh đất cũ sáng nay.

Ngày nào cũng có phiên chợ, người mua kẻ bán như trảy hội, đa số là các bà, các cô. Tôi ít thấy đàn ông Sơn Tây ở nơi này, họ thường la cà các quán nhậu, tán dóc với bạn bè nếu không thì trầm ngâm với điếu thuốc trên môi. Ở Sơn Tây, tôi dậy sớm lúc 5 giờ, tản bộ đường Quang Trung là đến Thành Cổ. Tôi gặp vài cô gái trẻ quét lá vàng trên phố. Khoảng 1 tiếng sau thì đèn đường tắt và loa phóng thanh rỉ rả tin tức từ quê ra tỉnh, mọi nhà vẫn đóng cửa ngủ yên như không có gì xẩy ra.

Có buổi chiều, khi ánh dương vừa khuất sau đồi, tôi đến khu đất nhiều cây lá, có tên là Vườn Ổi để uống cà phê với mấy bạn. Ngồi ở vườn, với không khí ảm đạm miền quê, ngọn đèn mờ ảo, từ trong nhà 2 thiếu nữ tuổi đôi mươi ra tiếp chúng tôi… Được biết mảnh vườn này ở khu Hậu Bình (gần khu Hậu An của Bố Mẹ tôi) đất quê của Trung Tướng Lê Nguyên Khang tư lệnh Thủy Quân Lục Chiến miền Nam trước năm 75 và bây giờ những người cháu của ông làm chủ quán Vườn Ổi vừa rộng vừa hữu tình. Căn nhà cũ của Tướng Nguyễn Cao kỳ ở Cửa Hữu, phố Ngô Quyền. Nghe kể ông Kỳ có về thăm Sơn Tây chớp nhoáng, sáng đến chiều đi. Ông có người anh cùng cha khác mẹ tên là Nguyễn Cao Đăng qua đời mấy năm nay. Sinh thời, ông Đăng bán báo sống qua ngày, cuộc đời cơ cực bần hàn.

Ngày 30 tháng 4 năm 75, khi chiếc xe tăng đầu tiên cán dẹp cánh cửa sắt chạy thẳng vào Dinh Độc Lập; chiếc xe thứ hai từ phía sau lướt tới... Hình ảnh ấy chúng ta đã xem nhiều lần trên truyền hình nhưng truyện này có một chi tiết quan trọng tôi xin kể vì người Sơn Tây bất mãn...

Trên chiếc xe tăng đầu tiên có 3 bộ đội, họ đánh sập cửa sắt Dinh Tổng Thống nhưng cả 3 không hề được ghi công. Chiếc xe thứ 2 vượt lên, vị sĩ quan tức thì nhẩy ra, leo lên Dinh cắm lá cờ xanh đỏ vàng rồi sau đó hắn được gắn huy chương và công trạng đi vào lịch sử. Trong 3 người ấy, Phượng là nông dân Sơn Tây, bây giờ cắt tóc ở bờ hào, công an đuổi lên đuổi xuống vì làm việc nơi công cộng không có giấy phép, người thứ 2 lái xe Lam ở Saigon và người thứ 3 trở về thôn cầy ruộng.

Chợ Nghệ nằm ở Cửa Tả, lấy tên của làng Nghệ, cách xa tỉnh Sơn 1 cây số. Chợ vừa xây 2 tầng ngay bên bờ hào Thành Cổ; những ngày tôi đến thì chợ chưa khánh thành và người ta họp chợ tạm gần đó. Đi chợ có cái vui là thấy sinh hoạt của tỉnh, rau cỏ, trái cây đều tươi từ quê mang ra. Tất cả gà vịt, chim chóc, cóc nhái hay hải sản cá, cua, tôm, lươn đều còn sống. Khi chọn ăn con nào thì con đó chết! Người bán cắt cổ, giết ngay trước mặt mình rồi nhổ lông làm sạch tại chỗ. Có lần 2 chim bồ câu đã bị đập chết chỉ vì tôi chán thịt gà! Kể từ đó, tôi không muốn trở lại phiên chợ Sơn Tây 1 lần nào nữa.

Danh lam thắng cảnh ở xứ Đoài nhiều lắm: Đền Và, Chùa Mía, Chùa Tây Phương, Núi Ba Vì… Tản Viên là ngọn cao nhất của núi Ba Vì. Từ Thành Cổ, tôi có thể nhìn thấy ngọn Tản Viên khi trời quang mây tạnh. Tản Viên là nơi xẩy ra sự tích Sơn Tinh, Thủy Tinh mà chúng ta đều đã học lịch sử. Tỉnh Sơn Tây xuất phát nhiều nhân tài tập trung ở 2 địa hạt quân sự và văn chương chẳng hạn như: Tản Đà Nguyển Khắc Hiếu, Quang Dũng, Chu Tử, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Ngọc Ngạn… ngoài những tướng tá tôi kể ở trên còn có Ngô Quyền, Phùng Hưng…

“Đôi mắt người Sơn Tây” là đôi mắt có linh hồn, không phải chỉ đẹp bề ngoài mà chứa đựng cả bầu trời tâm sự bên trong. Khi về đây, tôi hỏi vài trưởng lão để tìm “Đôi mắt người Sơn Tây” thì không ai có câu trả lời rõ ràng vì không thấy cô gái nào có đôi mắt đặc biệt ấy! Thỉnh thoảng tôi gặp vài cô gái đẹp nhưng không phải đôi mắt. Sau cùng, đọc lại bài thơ Quang Dũng: “Đôi mắt người Sơn Tây, u uẩn chiều lưu lạc, buồn viễn xứ khôn nguôi…” thì tôi không đi tìm nữa, đôi mắt ấy tôi đang sở hữu ở nhà và nhiều lần đã say đắm. Nỗi lòng này chỉ duy mình tôi hiểu…

Cuối cùng tôi đến viếng từng ngôi mộ, ông Bà Nội, ông Bà Ngoại, tôi cũng thăm tất cả họ hàng, có người chỉ biết tên chưa bao giờ gặp nhưng đã sớm nằm trong lòng đất. Nghĩa địa ở đây quạnh hiu không bút nào tả được, không khí lạnh lẽo bao phủ tận chân trời, từng ngôi mộ xanh cỏ đôi khi không bia đá, không hàng lối nổi lên ngổn ngang từ mặt đất tạo nên cảnh kinh hãi như người chết nhấp nhô trở về.

Đất xưa nên cảnh tượng hoang tàn, con người Sơn Tây nghèo khổ, đâu đâu cũng thấy đầu tắt mặt tối vì miếng cơm manh áo nên người chết phải sống trong lạnh lùng, ít ai dành thời giờ thăm viếng bảo trì vì thế khi bước vào mộ phải chặt cây, nhổ cỏ mới tìm đến nơi. Tôi nhớ nhất Bà Ngoại, năm 54 để Bà ở lại, Bố Mẹ tôi di cư vào Nam, cứ ngỡ xa cách chỉ vài tháng là đoàn tụ nhưng chiến tranh mỗi năm mỗi khốc liệt và mỗi ngày một cách xa. Bà già yếu khóc nhiều vì nhớ thương con cháu nên lòa cả 2 mắt rồi ra đi không một ai trong gia đình ở bên Bà. Bao nhiêu kỷ niệm đẹp của tôi đều xuất phát từ tình yêu của Bà. Tôi đã đến, đốt nén hương lòng, ngậm ngùi tưởng nhớ những năm xưa, những ngày thơ ấu có bàn tay Bà nâng niu ấp ủ... Gió bão thời cuộc đã cuốn đi tất cả và cuộc đời vẫn nổi trôi!

Ngày mai tôi sẽ xa Sơn Tây, không biết bao giờ sẽ trở lại nhưng xứ Đoài với bao ân tình vừa sống lại trong ngày về bên cạnh Bố sẽ chẳng thể phôi pha trong lòng tôi. Quê hương tôi là Đất Việt, có tỉnh lỵ Sơn Tây với núi Tản sông Hồng “nhớ canh rau muống nhớ cà dầm tương”. Sơn Tây ngày về là chuyến đi cuối của Bố tôi trước khi lìa trần. Dư âm ấy đã ghi đậm trong lòng để tôi viết nên nhiều tâm sự.

Vin CĐ

Irvine 12/07/2024 

Ý kiến bạn đọc
13/12/202400:00:51
Khách
Trích: “Bố tôi đã hơn 100 tuổi . . . tôi dắt Bố về thăm lại cố hương . . . .”
Tác giả Vin CĐ năm 2010 có cha trên 100 tuổi, tác giả tuổi nay đã hơn thất thập.
Bài viết khá hay, tuy câu trích tác giả “dắt Bố” không hợp cho người Việt, văn Việt. LGĐ
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi định cư tại San Diego đã ngoài bốn mươi năm qua. Vùng đất hiếm hoi khó có nơi nào sánh được: bởi chỉ nội trong một ngày lái xe quanh quẩn, người ta có thể đi từ biển lên núi, từ rừng xanh đến sa mạc, thưởng ngoạn đủ đầy hương sắc của đất trời. Sáng sớm thong dong bên vịnh Mission, mặt nước yên như tờ, hàng cọ in bóng trên nền sương mỏng. Trưa ghé Julian, nhâm nhi ly cà phê hay lát bánh táo giữa tiết trời lành lạnh và màu xanh thăm thẳm của rừng thông. Chiều về, con đường tới Borrego mở ra vùng sa mạc hoang vu, xương rồng rải rác trên nền đá đỏ. Suốt dọc hành trình đâu đó hiện ra vườn cam, vườn bơ, đồng nho trĩu quả giữa thung lũng nắng chan hòa. Cảnh vật thay đổi không ngừng, khi mộc mạc, lúc rực rỡ, nhưng vẫn hài hòa như một bản nhạc êm dịu của đất trời. Mỗi lần lái xe ngang qua, tôi cảm thấy mình như được nối lại với nhịp sống của đất, và lòng bỗng nhẹ nhàng lạ thường.
Nhà kho Walmart ở ngoại ô Dallas chiều 24 tháng 12 lạnh như cái tủ đông bị quên đóng cửa. Đèn neon trên trần sáng trắng, lâu lâu chớp một cái như mệt mỏi. Mùi nhựa mới, mùi carton ẩm và tí mùi dầu máy trộn lại với nhau, cảm thấy nghèn nghẹn như cổ họng khi nuốt tin xấu. Tôi đứng giữa hai dãy kệ cao ngất, tay cầm clipboard, tay kia nhét sâu trong túi áo khoác xanh có logo Walmart. Đồng hồ trên tay: 5:17 PM. Giáng Sinh, Walmart đóng cửa sớm lúc 6 giờ. Nếu rời đúng giờ, chạy bốn tiếng, trừ chút kẹt xe, tôi sẽ về đến Houston khoảng mười, mười rưỡi. Trễ, nhưng vẫn còn kịp thấy tụi nhỏ mở quà.
Khi những ngày tháng cuối của một năm đang dần hết, chúng ta thường có lúc bồi hồi nhớ về cố hương, về mảnh đất chôn nhau cắt rốn, hoặc nơi đã in dấu nhiều kỷ niệm đã qua trong đời. Và tôi cũng vậy, xin được nhớ về Gò Vấp, nơi có địa danh Xóm Mới, vùng ngoại ô không xa Sài Gòn, được nhiều người biết đến như vùng đất với nhiều dân Bắc kỳ di cư, nổi tiếng là khu Xóm Đạo, đã từng là nơi sản xuất pháo cùng với món thịt cầy (mộc tồn) lừng danh.
Ông từ người Papua New Guinea đón cha xứ mới người Việt Nam trước cổng nhà xứ. Dáng người ông từ khoảng chừng 30, khuôn mặt PNG nâu nâu đậm nét đăm chiêu, ánh mắt ẩn hiện nét hồi tưởng. Khi nhìn thấy cha xứ mới đang kiên nhẫn đứng đợi dưới mái hiên nhà xứ, nụ cười xuất hiện trên môi ông từ để lộ hàm răng trắng đều thường thấy nơi người bản xứ. Nhưng nụ cười ấy vụt tắt khi ông mở cửa, mời cha xứ lên xe. Ông từ nhanh chóng quay về lại trạng thái khô khốc khi chiếc xe cũ lăn bánh nhọc nhằn trên con đường đá sỏi gập ghềnh. Sau vài câu trao đổi xã giao ngắn gọn, ông từ lại chìm vào trạng thái im lặng. Thời gian trôi qua, năm phút rồi mà vẫn không ai nói thêm một lời nào. Cuối cùng cha xứ lên tiếng,
Giáo Sư Dương Ngọc Sum, với tôi, là hình ảnh tiêu biểu, đáng kính từ nhân cách, hiếu học, luôn luôn cởi mở, tính tình hòa nhã, thân thiện với mọi người. Ông định cư tại Hoa Kỳ theo diện H.O 3 vào tháng 7 năm 1990 (trước tôi một tháng, H.O 4) và cũng trải qua những giai đoạn thăng trầm trong tháng ngày tị nạn. Nhân dịp kỷ niệm Lễ Thượng Thọ 90 tuổi của GS Dương Ngọc Sum, nhà giáo và nhà văn, nhà thơ Dương Tử, viết những dòng về ông
Mấy chị em tôi chia nhau mua nhiều loại báo: Làng Văn, Thế Kỷ 21, Văn, Văn Học… chuyền tay nhau đọc. Tôi “quen” Thế Kỷ 21 đã lâu, nhưng chỉ là quan hệ... đơn phương. Vào những năm 90 của thế kỷ trước, tôi gởi bài đến tờ báo Măng Non, sau này đổi thành Văn Nghệ Trẻ của nhà văn Ngô Nguyên Dũng ở Tây Đức. Mãi năm 2003, tôi mon men vượt đại dương, tìm đến Làng Văn Canada. Được thời gian ngắn, anh Ngô Nguyên Dũng cho biết, báo Làng Văn phải đình bản, vì những khó khăn về tài chánh. Duyên văn nghệ của tôi với Làng Văn chưa kịp “bén” đã chấm dứt. Nghe chị Hoàng Nga “mách nhỏ”, tôi gởi bài đến Văn Học. Có lẽ địa chỉ hotmail của tôi bị nhầm là thư rác, junkmail, điện thư bị trả lại với lý do không giao thư được. Tôi vẫn tiếp tục viết, xếp trong “tủ”, lâu lâu đem ra đọc. Mỗi lần đọc, dặm thêm chút “mắm muối”.
Tôi học được cụm động từ “đi lăng quăng” của bố Sỹ vào những ngày còn học tiểu học. Sau giờ tan trường hay vào cuối tuần, thỉnh thoảng bố lại hỏi mấy thằng con trai: “Có đi lăng quăng không?” Dĩ nhiên là có rồi! Ngồi ở thùng xe phía sau chiếc Daihatsu, chúng tôi theo bố đi giao sách ở những tiệm sách, sạp báo ở trung tâm Sài Gòn. Cũng có khi chỉ là ra một công viên, chúng tôi được chạy nhảy, trong khi bố ngồi trên xe viết lách. Không rõ có bao nhiêu tác phẩm của Doãn Quốc Sỹ được viết trong hoàn cảnh này. Rồi cụm từ “đi lăng quăng” trở lại sau gần một nửa thế kỷ. Ở căn nhà Lampson thành phố Garden Grove, mỗi chiều tôi đi làm về ghé qua, bố đã ngồi đợi trước cửa. Thấy tôi đến, bố hỏi ngay: “Có đi lăng quăng không?” Thế là hai bố con bắt đầu hành trình “lăng quăng” đúng nghĩa, qua những khu dân cư ở gần nhà. Đi không có phải là để đến một nơi chốn nào đó. Đi chỉ để mà đi, để hai bố con có thì giờ ngồi bên nhau trò chuyện. 50 năm trước, bố chở con đi; 50 năm sau đổi ngược lại.
Buổi sáng cuối cùng ở Chamonix im lặng lạ thường. Suốt đêm qua, tôi đã để cửa sỗ mở toang, nên khi giựt mình thức dậy, ánh sáng trong suốt của núi tràn đầy phòng. Tấm mền len và drap giường trắng lóa như được phủ lân tinh. Không một tiếng động nào từ dưới đường phố vọng lên. Chỉ có hơi lạnh. Tôi nằm co ro và nghĩ đến ly cà-phê đen. Mùi thơm sẽ bốc lên cùng hơi nóng, rồi tan dần vào không khí. Giống như ký ức. Đôi giày đóng đầy đất bùn và gậy trekking đã xếp gọn gàng trong bao duffle cùng với áo quần đi núi từ đêm hôm qua. Chúng nằm bên cửa, sẵn sàng lên đường. Bên ngoài cửa sổ, rặng núi Mont Blanc vẫn kia, vẫn vĩ đại, vẫn trùng điệp, vẫn lặng lẽ xa xăm. Tôi nghĩ đến 11 ngày vừa qua và cảm thấy buồn buồn, làm như có điều gì tôi đã đánh mất, hay đã để quên trên ngọn núi kia, ở đâu đó, trong quãng đường dài tôi đã đi.
Năm nào cũng vậy, tháng 7 tháng 8, mùa mưa, mùa lũ lụt lại về trừng phạt quê hương Việt Nam. Từ rất xa xôi, người Việt khắp nơi thấp thỏm buồn rầu và lo sợ cho cảnh ngập lụt, bão tố hoảng loạn ở nhà, không riêng chỉ miền Trung mà cả miền Nam cũng lụt, miền Bắc và Bắc trung phần bị càn quét dữ dội do bão Bualo, rồi kế đến là bão Matno. Miền Bắc và cả thủ đô Hà Nội mưa bão trước chưa kịp khô, lại ngập nước, đường phố hóa thành sông do vỡ đập nước Lạng Sơn, nước sông dâng cao đỉnh điểm, tại thành phố còn có một số tổ chức cứu trợ, nhưng kẹt là ở các tỉnh miền cao, nước lên quá mau, đa số dân cư phải leo vội lên trú trên những mái nhà cao hơn. Cũng tại xả nước các đập thủy điện nữa v.v…
Đợi, và đợi. Có đến khoảng gần một trăm người xếp hàng đợi. Mới có năm giờ sáng thôi! Trời Đà Lạt đổ sương xuống nghe ướt tóc, ướt vai. Phòng bán vé còn đóng kín cửa. Sáu giờ mới bán vé. Biết vậy rồi, nhưng đám đông người này vẫn đến sớm chờ đợi. Chẳng qua là số xe có giới hạn, mình đến sớm mới mong có xe đi, nếu không thì phải về và trở lại vào ngày mai. Người ta nhìn nhau, như ngầm nói qua đôi mắt rằng đến sớm chắc ăn hơn. Mà không chừng có người đã ngủ đêm trước phòng bán vé để được xếp hàng phía trên cùng.
Tháng 7 trời xanh cao, mùa lên hâm nóng. Mặt đất nung nhiệt ngấm ngầm địa chấn, như muốn cùng người rung vang lời ngân quá khứ. Tháng 7 gọi về hàng phượng đỏ thắm rung rinh chùm nở, thứ lung linh ảo mờ, gần gụi mà xa thẳm, “mù không lối vào...” (TCS). Vang vang trong gió, lời trẻ thơ láng giềng vọng lại đùa vui tiếng nước...
Nếu Thanksgiving ở bên Mỹ mang màu sắc rộn rã chuẩn bị cho mùa Giáng Sinh, thì Thanksgiving bên Canada lại rơi vào Tháng Mười dịu êm, có đủ màu sắc nâu vàng đỏ của lá cây chuyển màu cuối Thu, với màu cam của những trái pumpkins cho lễ hội Halloween . Những ngày này, gia đình tôi chộn rộn với những đợt “thu hoạch” cuối cùng, chuẩn bị dọn dẹp vườn tược sạch sẽ trước khi mùa lạnh đang đến. Theo ý nghĩa nguyên thủy của Thanksgiving là Tạ Ơn đất trời cho mùa màng bội thu, thì năm nay gia đình tôi cũng xin được Tạ Ơn. Mấy cây táo và plum trúng mùa trĩu quả, hái mấy lượt vẫn không hết. Những quả plum tím căng mọng ngọt ngào, vừa đem tặng bạn bè, hàng xóm, vừa để đông lạnh ăn dần, mà vẫn còn mấy rổ tươi đầy ắp. Mùa táo, nhiều gia đình Việt Nam thích đem ngâm chua ngọt, trong khi những người bản xứ làm mứt táo, hoặc sên táo làm apple pie, một trong những món bánh khoái khẩu của nhiều người trong bàn ăn Thanksgiving bên cạnh pumpkin pie .


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.