Hôm nay,  

Tình yêu

19/02/202510:05:00(Xem: 5642)

two faces
Ảnh minh họa Art.org

 

 

 

Lòng ta chôn một khối tình

Tình trong giây lát mà thành thiên thu

Khái Hưng

 

Mon âme a son secret, ma vie a son mystère

Un amour éternel en un moment conçu

Sonnet d’Avers

 

 

Nhân dịp ngày lễ tình yêu, nhắc đến tình yêu, hẳn ta nhớ ngay đến bài thơ tình già, tả cuộc tình chắc nich của cụ Phan Khôi :

 

Hai mươi bốn năm xưa

Một đêm vừa gió lại vừa mưa

Dưới ngọn đèn mờ

Trong căn nhà nhỏ

Hai mái đầu xanh kề nhau than thở

 

Ôi đôi ta thương nhau hẳn đà tình nặng

Mà lấy nhau hẳn đà không đặng

Đến nỗi lòng tính trước phụ sau

Chi bằng sớm liệu mà buông nhau

Hay, nói mới bạc làm sao chớ

Buông nhau làm sao cho nỡ

 

Thương được chừng nào hay chừng nấy

Chẳng qua ông trời bắt đôi ta phải vậy

Ta là nhân ngãi, đâu phải vợ chồng

Mà tính chuyện thủy chung.

 

Hai mươi bốn năm sau

Tình cờ đất khách gặp nhau

Hai mái đầu đều bạc, nếu chẳng quen lung

Đố có nhìn ra được?

Ôn chuyện cũ mà thôi, liếc đưa nhau đi rồi

Đôi mắt còn có đuối…

Thơ mới Phan Khôi


Thưa bạn, chuyện tình yêu là vậy, là xa xưa như trái đất, và vẫn luôn luôn là mới, vì con người sống cần tình yêu, con người mà không có tình yêu thì quá mộc mạc đến u tối, như một bầu trời không trăng sao. Tình yêu có nhiều thay đổi, tùy theo tuổi, theo hoàn cảnh và tùy theo mỗi người.

 

Khi ta còn trẻ, tình yêu tuổi đôi mươi nồng cháy hăng say, “yêu là yêu không bờ bến rồi…”

 

Qua tuổi trung niên, tình yêu ấm áp, phong kín và đậm đà đầy kỷ niệm khó phai nhòa.

 

Tình yêu với thời gian, đi vào tuổi lão niên, nếu còn sống đó là những sợi tơ hồng thừng, chão bền chặt, khó rời.

 

Có những cụ ông cụ bà 70, 80 tuổi còn sống bên nhau, nương dựa lẫn nhau, không phải là họ chỉ cậy nhờ nhau miếng cơm ly nước, mà họ nương tựa vào sự có mặt bình yên của nhau rất nhiều, bà khỏe thì ông khỏe, ông vui thì bà vui theo, một cánh hoa tàn thì cánh hoa kề bên sẽ rung rung.

 

Tôi xin kể hầu bạn nghe câu chuyện tình yêu khá đặc biệt của cha mẹ nuôi tôi, là ông Quách Vĩnh Sanh và bà Võ Thị Chanh.

 

Lý do tôi khăng khít liên hệ với họ cũng rất tình cờ, hồi đấy ông chồng tôi đi xa, bận công việc, tôi ở lại nhà một mình hai ba tháng, đặng coi chừng nhà, vì có lúc xã hội quá bất ổn.

 

Ở nhà một mình, tôi tự do coi T.V tối ngày, ra vô internet coi tin tức và đi du lịch quảng cáo hà rầm, riết cũng chán, mỏi mắt, hôm ấy đẹp trời, tôi quyết định ra ngoài.

 

Tôi ra siêu thị Auchan gần nhà, ô vui quá, siêu thị giáp dịp lễ Noël cuối năm rộn rịp người mua sắm, đầy hàng hóa đủ màu long lánh tươi vui, nhộn, rộn ràng. Đi rảo rảo mỏi cẳng, tôi ra băng ghế ngồi nghỉ, uống nước và đọc sách. Chỗ đấy có một quầy sách tự do, ai muốn coi cứ lấy coi, coi xong tự nhiên để lại chỗ cũ. Rồi đang coi sách dậy nấu ăn, tự nhiên có một chị đồng hương ghé ngồi xuống kế bên và ngỏ lời:

 

Chị ơi, chào chị, chị là Việt Nam hả? Chào chị và cho mình làm quen nhe, chị cũng ở gần đây?

 

Chào bồ, oui, tôi, Việt Nam, tôi ở gần đây thôi, tôi tên Mai, rất vui được quen bạn.

Em ở ngay dẫy nhà sau siêu thị, residence de nénuphar, em tên Liên, 55 tuổi, em còn làm việc cho banque Société Générale. Em có chồng và hai con đã lớn. Em còn có một mẹ già 95 tuổi, đang ở với em cùng nhà.

 

Mình hơn bạn 10 tuổi, vừa nghỉ hưu, nên rảnh rang và như lúc này thư thả ra đây đi dạo chợ Noël. Ngồi cạnh nhau thủ thỉ tâm tình được khoảng nửa giờ, thì cô Liên mới làm dạm hỏi:

 

Chị ơi, chị có biết ai là người Việt mình, mà muốn đi nuôi một bà già Việt Nam không? Mách dùm em, đó là nuôi, canh giữ má em đó. Bả còn tỉnh táo lắm, chỉ cần người giúp đỡ khi bà ăn uống, thay áo quần, giúp làm vệ sinh và canh chừng bả trong nhà thôi.

 

Tôi nghe Liên kể một lô công việc, liền nheo nheo mắt:

 

Nè, mướn mình đi, mình đang muốn làm việc nè!

 

Ok, vậy được quá, cám ơn chị, em đưa chị về nhà gặp má em nhe, má em tên Chanh, gọi là má Chanh!

 

Tôi rảo bước đi theo Liên về gặp má Chanh… chẳng biết cụ như thế nào, chanh hay quất đây, nhưng tôi tự nhủ sẽ cố gắng chiều và săn sóc cụ… vì tôi mồ côi, thiếu mẹ từ thời thơ ấu. Tôi thích có mẹ lắm.

 

Nhờ thế tôi được gặp má của Liên, đó là một cụ già  gần 100 tuổi, 95, nói cho đúng. Cụ già rồi mà còn sạch sẽ chu đáo gọn gàng. Cụ đẹp người, mặt sáng như gương và rất tình cảm, cụ gọi tôi là con gái ơi, và tôi cũng kêu bà là má cho tiện việc thưa gởi.

 

Mỗi ngày tôi đến 8 giờ sáng, coi chừng má Chanh cho Liên yên tâm đi làm, chiều lối 7 giờ, Liên về nhà và tôi về nhà tôi. Liên trả tôi một phong bì tượng trưng 20 euros mỗi chiều và một phần ăn tối.

 

Liên có một ông chồng Tây rất dễ mến, cởi mở và lịch sự. Louis vui vẻ với má và cả với tôi nữa.

 

Vậy mà một tuần lễ sau, má nói má sắp về nhà má, thì con gái có đi theo coi chừng má nữa không? Ok để xem, thì ra má thu dọn về nhà má, cũng gần đó thôi, ở phía bên kia siêu thị, nhà của nhà nước cho mướn, nên không đẹp sang trọng như cái villa của vợ chồng Liên ở.

 

Tôi đưa má về nhà má, mẹ con đi bộ, cũng không có gì nhiêu khê ngoài hai giỏ sách gọn ghẽ. Lúc chia tay Liên tâm sự với một chút bực bội:

 

Chị Mai à, thôi về bển, chị vẫn đến săn sóc má như ở đây nhe, em vẫn trả tiền sòng phẳng như vậy, ở bển cũng như ở đây vậy.

 

Tôi lơ mơ không hiểu lắm thì Liên kể lể tiếp:

 

Má không muốn ở với tụi em lâu, chỉ chừng vài ba bữa là má đòi về bển, ở bển, má sống với cậu tư, cậu là chồng đầu tiên, chồng sau đó và chồng bây giờ của má! Liên nói lung tung không rõ lắm. Nhưng sau khi đưa má về bên nhà housing, gặp cậu tư, thì tôi hiểu rõ hơn hoàn cảnh của má.

 

À, là có vậy, cậu tư là chồng má Chanh, là ông Quách Vĩnh Sanh thân quý, mà những ngày tiếp theo đó, tôi coi ổng như cha nuôi của tôi vậy và kêu ổng bằng ba Sanh.

 

Ba Sanh tánh tình rất hào hiệp, cởi mở thân ái với tất cả mọi người xung quanh, từ đứa con nít chạy giỡn đâm sầm vào ông tới cả người facteur. Ông tướng người cao ráo phương phi, mặt mũi sáng láng, rất xứng đôi với má Chanh.

 

Khi rảnh rang, ông ra ngoài vòng rào siêu thị, lượm ba món đồ còn tốt như quạt, nồi cơm điện, tv, mà người ta xài chán quăng bỏ, ông mang chúng về lau chùi, tu bổ lại, khi thử điện xong, thấy vận hành tốt, ông ghi vô là: en bonne qualité, xong bao bọc mang bỏ để ngoài hành lang siêu thị, coi ai có cần hay nghèo túng thì cứ tự nhiên khuân về mà xài, c’est gratuit!

 

Ngoài cửa sổ hành lang nhà, ông trồng đủ loại bông hoa rất vui, đẹp rực rỡ. Quý nhứt là những chậu bông giấy đủ màu đỏ, tím, trắng, vàng. Có những chậu hoa lan đã tàn mà ông khéo tu bổ tưới tắm, chúng lại trổ bông nhiều lắm, rất dịu dàng.

 

Tôi chỉ có thể đứng trước dậu mà ngắm ngó, nhưng chẳng dám mở lời khen, vì lỡ khen thì ông cụ hối:

 

Lấy đi, lấy vài giò mang về nhà cô đi, trồng cho vui! Chúng tôi tự nhiên đi tới chỗ thân tình rất mau vì ba Sanh đã kể là, khi xưa ông ở trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa, ông cứ nói vắn tắt, dân V.B ấy mà! Tôi thắc mắc vặn hỏi V.B là cái gì? Ông cười xòa, võ bị ấy mà, võ bị Đà Lạt. À ra thế. Ông ở trong quân đội, tôi nhỏ hơn nhiều tuổi và cũng ở trong hàng ngủ giáo chức thể chế VNCH.

 

Ngày ấy, trước 1975, tôi dậy học ở Nhơn Trạch, Biên Hòa. Nghe nói vậy, ông mừng rỡ vì ông có một người bạn chí thiết là đại úy Long, làm quận trưởng quận Nhơn Trạch đồng thời.

 

Ông cứ kể đi kể lại tới hai ba lần là cái ngày đình chiến theo hiệp định paris 27-01-1973, ông về quận Nhơn Trạch thăm yếu khu thành Tuy Hạ, thăm quận trưởng Long rồi nhơn dịp đó, có quân nằm vùng mặt trận mang cờ hai màu ra căng ở bìa rừng cao su để giành dân chiếm đất ông tức tối rủ đại úy Long chở đại bác ra phía ngoài bìa rừng, lên đạn nhắm thẳng cờ mặt trận bắn, đoàng đoàng đoàng cho lá cờ cộng sản của chúng chạy biến mất vô rừng cây cao su rậm rạp…

 

Ông cũng từng tâm sự về mối tình tha thiết của ông và bà má… “Ba biết má lúc má còn con gái, ở Trung Lương Mỹ tho, má còn trẻ, đẹp lắm với tuổi ngoài đôi mươi,  má đẹp dịu dàng trong sáng rất khả ái. Khi đó, ba có 16, 17 tuổi ba đã nhìn thấy và thầm yêu cô Chanh. Ít năm sau, má đi lấy chồng, má lấy ba Hiếu, là ba ruột của cô Liên đó và Liên có một em trai tên là Thảo. Nghe nói em trai Thảo đã mất khi còn nhỏ. Sau khi họ đã có hai con, chẳng may ba Hiếu bạo bệnh mà mất đi lúc tuổi còn rất trẻ. Người ta đồn má Chanh có số sát phu; sát gì sát, ba vẫn thường yêu trộm nhớ cô Chanh.

 

Sau khi chồng chết, má Chanh buồn bỏ lên Saïgon, buôn buôn bán bán, rất khấm khá, vào thời buổi người Mỹ đổ vào Việt Nam khá đông. Còn ba thì gia đình hối thúc lên Saïgon học thi tú tài, sau đó, may, thi vô được quân trường VB Đà Lạt.

 

Vô được trường VB, ba vùi đầu học quân sự và dùi mài kinh sử để quên đi tình yêu day dứt buổi đầu.

 

Sau bốn năm học, về đơn vị tác chiến, ba đi hành quân nhiều nơi thấm mệt thấm vui mà ba vẫn không quên người cũ.

 

Trong một lần về Saïgon bát phố, lang thang qua các đường Lê Thánh Tôn, Lê Lợi, Nguyễn Trung Trực, rồi đường Tự Do, tình cờ dòm qua những cửa kính những mặt hàng sang trọng, ô, ngớ ngẩn, mà ba loáng thoáng thấy ai như cô Chanh ẩn hiện lấp ló giữa một lố cửa kính, ba định thần nhìn kỹ và mạnh dạn bước vô một cửa hàng, vô rồi, ba thấy má Chanh con thiệt, bằng xương bằng thịt, bà như rớt từ trên trời xuống trước mặt ba, bà đó, bả đứng bán trong một cửa hàng mỹ phẩm Coty sang trọng ở thương xá Passage Eden. Ba vô chào và hai người nhận ra nhau… cùng quê Mỹ Tho đã 9 năm trước. Từ đó, thấu rõ hoàn cảnh đơn thân của cô Chanh, nên về được thành phố, là ba lui tới đó hoài hoài. Y là má Chanh cũng ưng ý ba… nên vui lắm mỗi lần gặp nhau. Hồi đấy, như là ba cũng khá bảnh bao.

 

Nhưng, cái gì cũng nhưng, là gia đình bên ba phản đối dữ dội không cho ba cưới cô Chanh, viện lẽ trai tơ không lấy gái nạ dòng!

 

Nhưng ba rất yêu và nhứt định cưới cô Chanh làm vợ chánh thất, ba giận má ba và không kể họ hàng, ba tự lo làm đám cưới trong quân đội và ba có mời cho được cô Mai Lệ Huyền và ca sĩ Hùng Cường tới hát giúp vui… đám cưới nhà binh, vui, hùng hậu, rôm rả lắm… cô dâu thì đẹp não nùng… và may thay hôm đấy đấy, cái tụi VC nó không pháo kích ùng oàng…

 

Sau đó, ba có nơi dừng chân ở Saïgon mỗi lần về phép, ba má sống êm đềm bên nhau, rồi mỗi lần được ra ngoại quốc như qua Mỹ hay qua Mã Lai học về tác chiến cận chiến, đi và về thì ba mang theo hai valises chất đầy mỹ phẩm, hàng deluxe cho má con bán… xen kẽ là những đồ lót đắt tiền. Nói thiệt ra lương nhà binh, ba đâu có nhiều nhặn gì tiền mà giúp má nuôi Liên và em Hùng mà má mới sinh ra sau này.

 

Nhưng, lại nhưng nữa, là khi má buôn may bán đắt, bạo tay kiếm tiền lớn, thì mất Miền Nam, ngày 30-04-1975, ngày đại nạn dân Miền Nam ta.

 

Ba không về kịp nhà một lần, ba bị bắt ngay trong đơn vị tác chiến, ba là tù binh bị đẩy ra Bắc ngay. Mịt mù tin tức, mãi ba năm sau, mới hay tin má Chanh đã xoay sở nhờ cậy một người bạn hàng ở pháp làm mai mối cho má một ông Tây già, để làm hôn thú đặng má xuất cảnh mà mang theo các con ra ngoại quốc. Ở nước ngoài má phải sống với người chồng Tây 5 năm trời, hầu hạ săn sóc ổng và khi ổng ra đi vĩnh viễn. Má Chanh lại lần mò quay về Việt Nam.

 

Về lại quê hương tù tội, má lặn lội đường xá xa xôi thăm ba, sau lo liệu làm lại hết giấy tờ hồ sơ bảo lãnh kịp mười năm sau, khi ba được thả về, má lo cho ba cùng sang đây.

 

Con coi, tình thì nặng, nghĩa thì đầy, mà sao Liên hay kiếm chuyện cằn nhằn má nó và ba hoài!”

 

Ba để đó con, con lo vụ này, con sẽ giải thích cho Liên nó hiểu là: con nuôi cha không bằng bà nuôi ông và ngược lại ông nuôi bà cũng vậy, đó là phong tục Việt Nam, lại nữa, má ở bên đó, trong ngày, hai đứa nó đi làm suốt, nhà vắng hoe, buồn hiu…

 

Mà này, ba cũng 86 tuổi rồi, lúc này coi má Chanh run run yếu, lo cho má ba có mệt không?

 

Thì có ngày ba cũng mệt cầm canh, nhưng ba hạnh phúc sống bên má. Quê hương đã mất rồi, mất tất cả rồi… ba còn một chút hạnh phúc nhỏ nhoi tuổi già bên bả. Tội nghiệp, ông nói thế đó rồi xúc động, đưa Kleenex lên chậm chậm mắt lèm nhèm.

 

Mà ổng thương yêu bà hết lòng, bà thích ăn bánh cuốn hay bánh tôm, ông lật đật làm hay có tiệm bán đâu đó, tìm mua về cho bả ăn. Trước là vụng, sau lần khéo và ngon, hai người vừa ăn vừa ngỏn ngoẻn ngó nhau cười y hai đứa con nít nhỏ.

 

Khi thấy trên mặt bà có lẩn mẩn vết thâm thâm, ông vội tìm crème mỹ phẩm về thoa thoa nhẹ nhàng, xóa xóa những vết nám trên da bà. Ông nói bà không phải là bà già mà bà là bà trẻ của ông. Thiệt ra bà nằm hơi nhiều trong ngày! Có lần Liên bất chợt nhìn thấy ông đang lau mặt thoa kem cho bà, nó đưa tay lên trời, cằn nhằn: “đúng là hai con khỉ già!”

 

Tuy bà trẻ của ông thiệt mà bà đã phải mang couches và ông luôn chằm hăm rình xem thứ ba nào siêu thị bán hạ giá couches, ông vội đi mua ngay về cho bà 2,3 lố bự… đặng thay luôn cho dễ chịu.

 

Đêm đêm bà ngủ mơ ngủ mớ, kêu và gọi, làm ông lại hô mệt cầm canh! Ban ngày, khi ở đó, tôi hối ông đi ngủ một buổi chiều đặng lấy lại sức khỏe… có lần đó, ông kể ban đêm rồi, bà mơ và gọi lớn: Hiếu ơi,  Thảo ơi… bảo rằng nằm mơ thấy người trong gia đình đã mất từ lâu là điềm gở… nhưng rồi ông đứng lên tập vài động tác thể dục nhẹ và rót nước uống ngay.

 

Một lần đó, bà nói bà bị đau ran ran bên mạn sườn. Tôi trấn an là không sao, chắc là bị gaz dồn ép, nên đi khám bác sĩ. Nhưng mà ông không tin, ông phản bác:

 

Không phải tại gaz đâu, với má, có thể là chuyện khác, độ xưa là xưa, má con buôn bán đồ lót đắt tiền, có lúc bà cần biểu diễn, và bà đã lỡ đi sửa ngực, nay tuy đã lâu rồi, cũng phải đi kiểm tra lại. Ba nghĩ như ngày đó, cỡ minh tinh màn bạc cũng ít có hàng hiệu mà uốn éo như bả đâu . Bả uốn éo thử qua thử lại trước gương coi có duyên lắm! Y con nít làm điệu.

 

Bẵng đi một tuần bận công chuyện riêng, một ngày bất ngờ tôi trở lại khuôn viên Auchan, vừa đi ngang vòng quay xe ngựa voi giải trí của trẻ em, tôi thấy ông ba ra ngồi tò ho một bên cổng siêu thị, bên cạnh có 3,4 lô couches bự che khuất nửa người.

 

Tôi dáng chừng tò mò hỏi: bữa nay siêu thị bán đại hạ giá couches sớm quá hả ba?

 

Ông không trả lời, chỉ nhìn lên bóng đèn và ứa nước mắt: rồi thều thào:

 

Đây không phải đồ mua, đồ nhà, ba mang ra đây đặng mang đi cho, đi biếu, c’est gratuit… ai cần cứ lấy!

…..

 

Ờ… mang đi biếu, không xài nữa, bị má mất rồi…

…..

 

Má Chanh mất rồi, đưa vô bệnh viện bị má khó thở, rồi bà đi rất mau, đi ngay trong phòng khám.

 

Ông nói một hơi rồi lặng lẽ khóc… khóc ấm ức, nghẹn!

Cứ nhìn ông già khóc vợ nghẹn lời, mà nhớ lại nhiều lần ông còn như muốn kể lể:

Cuộc tình của ba với má Chanh gián đoạn rồi kết nối nhiều lần mà không đáng buồn vì là cuối đời ba vẫn yêu quý má, má vẫn yêu thương ba như ngày đầu mới gặp…

 

Thiệt là tái hồi Kim Trọng ba hả? Ba may mắn lắm đó. Ông già nhà binh hết thời, vẫn nhẹ tênh, trả lời hỉ hả ra chiều tâm đắc:

 

Ôi trời! Cám ơn! Trong mọi hoàn cảnh, mà vẫn nghĩ tốt về nhau, lo lắng, cư xử với nhau thâm tình thâm nghĩa là tình yêu tuyệt vời… còn như cái miệng thế gian toàn mơ hồ vẩn vơ:

 

“Buông luông thì cũng chẳng mòn

Chính chuyên cũng chẳng sơn son để thờ”

Ngày lễ Tình Yêu / 2025

nhớ về gia đình ba má Sanh

Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T
Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà. Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai. Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.
Cuối tháng Ba, những cơn gió nóng tràn về thành phố. Một hai trận mưa lạc loài đến sớm rồi thôi. Không khí ngột ngạt. Mùi đất nồng khó chịu. Như một cô gái uể oải trong cơn bệnh, thành phố trông mệt mỏi, rạc rời. Đoan đi vào Câu lạc bộ của trường. Bình thường, cứ đến thứ Sáu là không khí chuẩn bị cho chiều văn nghệ thứ Bảy lại nhộn nhịp. Nhưng hôm nay, như có một cái gì kéo mọi thứ chùng xuống. Chị Thuận, người phụ trách Câu lạc bộ, mỉm cười khi thấy Đoan, nhưng là một nụ cười kém tươi. Chị vẫn câu chào hỏi thường lệ: “Em uống gì không?” “Dạ, chị cho em nước chanh.” Chị Thuận pha ly nước chanh đặc biệt, nóng, ít đường, mang đến để trước mặt Đoan, và kéo ghế ngồi xuống bên Đoan. Hình như không có gì để bắt chuyện, chị Thuận nhìn ra sân, nói nhỏ:
Tôi khép cánh cửa phòng ngủ, rón rén bước ra, sợ gây tiếng động làm thằng cháu nội lại giật mình thức giấc; thằng bé đã mười tháng tuổi, biết làm đủ thứ trò như con khỉ con, chiếc mũi bé xíu của nó chun lại, đôi môi dầy cong lên, mỗi khi bà nội bảo nó làm xấu, thật dễ thương, canh nó hơi mệt vì phải chơi cho nó đừng chán, lèo nhèo, nhưng chơi nhiều thì sức bà nội có hạn, làm sao chạy theo nó cả ngày được!
Những cái mặt hướng về phía trước. Những cái đầu hơi cúi, những cái lưng hơi còng có lẽ bởi sức nặng của chiếc ba lô đeo sau lưng, hay tại - nói một cách màu mè, văn vẻ, đầy giả dối là - gánh nặng của đời sống. Trước mặt tối đen. Bên phải là những cánh cửa cuộn bằng tôn đóng kín. Những cánh cửa lạnh lùng, vô cảm; lầm lì từ khước, âm thầm xua đuổi. Dưới chân là nền xi măng. Cứng và lạnh. Không thể là nơi tạm dừng chân, nghỉ mệt. Sâu vào phía sát vách là nền lót những viên gạch vuông. Không một cọng rác. Không một bóng chó hoang, mèo lạc. Không cả những hình hài vô gia cư bó gối vẩn vơ nhìn nhân gian qua lại.
Đức hạnh cao quý thể hiện thành tâm vô phân biệt. Tâm vô phân biệt tạo thành một sự bình đẳng tuyệt đối trong giáo pháp của đức phật. Giáo pháp thâm sâu vi diệu của Như Lai thì không phải ai cũng hiểu hết, cũng ngộ được điều đó đa phần các vị đại trí thấu đạt. Còn lòng từ bi của phật thì lan tỏa vô phân biệt như ánh sáng mặt trời soi sáng khắp nơi nơi, như mưa rơi tắm mát đại ngàn. Những lời giảng dậy trên đây được dẫn chứng nhiều và rõ nhứt là ở phật giáo Tây Tạng.
Anh Hai của tôi, sau chuyến vượt biên thất bại, bị giam ở nhà tù Bình Đại Bến Tre chín tháng, khi trở lại trường Phan Thanh Giản, Cần Thơ mới biết đã bị cắt hộ khẩu, mất việc làm, bèn quay về Sài Gòn sống tạm với gia đình, chờ cơ hội vượt biên tiếp theo. Một hôm, anh bị cơn sốt rét tái phát hành hạ, (hậu quả của những ngày trong trại giam), cần phải đến bệnh viện chữa trị, nhưng hộ khẩu không có, anh bèn mượn cái Sổ Sức Khỏe của thằng cháu (con bà chị họ ở kế bên nhà), để đi khám bệnh
Năm đó, tôi qua Arlington,Texas thăm gia đình, rồi ghé Dallas thăm người hàng xóm cũ thân thiết từ khi còn ở Việt Nam . Chú Thím ấy đónvợ chồng tôi nồng hậu như mọi khi, bữa ăn đặc sản món Huế như tôi yêu cầu, sau đó kéo nhau ra phòng khách ăn bánh uống trà . Rồi Thím gọi cháu ngoại: - Thiên Ân ơi, ra đây ca hát cho hai bác Canada nghe đi con.-Cô bé hai, ba tuổi tung tăng ngoan ngoãn khoanh tay chào chúng tôi, rồi bạo dạn chạy ra giữa phòng, tay giả bộ cầm micro phone, rồi nhún nhảy tự nhiên hát một bài hát Tiếng Việt thật rõ ràng .
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
Người đàn bà với tay kéo tấm bạt vải phủ hai mặt bàn thấp và lổng chổng mấy cái ghế úp lại phía trên. Buổi chiều tháng chín nhả vài vệt nắng vàng sậm trên mấy lùm cây mắm khẳng khiu mọc hoang dại bên hông. Căn nhà chia làm hai, phía trên mặt lộ làm quán lộ thiên, phần còn lại là căn nhà sàn nằm doi ra mặt bờ kinh Cụt. Mặt quán cũng được biến dạng mỗi ngày. Sáng có cà-phê, hàng xôi và thuốc lá. Buổi trưa là quán cơm bình dân cho đám khách hàng chợ Giữa, đến từ các huyện xa xôi. Tối đến, chỉ còn vỏn vẹn thùng thuốc lá bán lẻ. Tất cả sinh hoạt biến dạng dưới bàn tay của người đàn bà và đứa con gái nhỏ. Người ta nhìn thấy trong đôi mắt nâu đen của hai má con in đậm hình ảnh căn nhà chật chội, bày biện lượm thượm những ghế bàn buồn bã, lạnh lùng. Bóng dáng người đàn bà và bếp lửa áo cơm, vẫn không đủ vẽ lên khung cảnh đầm ấm của một gia đình. Đứa con gái mười bốn tuổi, giống má, lầm lũi như chiếc bóng trong nhịp đời hờ hững.
Ai cũng có những hoài niệm mang theo cả cuộc đời, hoài niệm ngày càng nhiều theo tuổi tác dâng lên, người may mắn có nhiều hoài niệm vui hơn buồn để khi chợt nhớ thấy lòng vui vui. Ai cũng có những ước mơ thầm kín để khi hoài niệm thấy mình còn là người, giả như ước mơ cho người yêu cũ có cuộc sống hạnh phúc. Điều ấy nói ra ai tin nên xếp vào ước mơ thầm kín, còn những ước mơ nói ra được chỉ là hoang tưởng nhất thời như thấy chiếc xe đẹp lướt qua, ước gì mình có chiếc xe ấy. Nhưng giả sử ngày mai trúng số, có tiền mua chiếc xe ấy thì ước mơ nói ra được hôm qua đã thay đổi thành chiếc xe mắc tiền hơn nữa và đẹp hơn nữa vì là chiếc xe của hôm nay, của người mới trúng số. Khác với ước mơ thầm kính vui buồn riêng mang coi vậy mà theo ta như hình với bóng, càng thầm kín càng bền lâu sau nỗi buồn chia xa đã gặm nhấm tâm can theo tháng ngày, nghe tin người xưa không hạnh phúc thì nỗi buồn tăng lên gấp đôi nhưng nói ra ai tin trong trời đất bao la này…
Truyện HOÀNG CHÍNH - Thứ Mùa Màng Không Có Thật


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.