Hôm nay,  

Người Rơm

14/03/202500:00:00(Xem: 3563)
 
iStock-1157083981

Người rơm, họ, phải sống chui lủi và phải làm những công việc vất vả mà nhiều người khác không muốn làm. Ít nhiều gì họ cũng mong ước có ngày trở thành người thiệt, thoát kiếp rơm. Ảnh istockphoto.

 
Ngày xưa rất xa xưa, ở vùng quê thôn dã, người dân sống giản dị, đơn sơ, mộc mạc; người ta trồng tỉa những vườn rau cải, vườn ngô, vườn cà… lấy hoa lợi để sống. Thường thường có chim chóc kiếm ăn đến phá phách, dãi dãi, mổ mổ những hạt mới ươm trồng hay những nụ hoa mới ra, chúng ăn, với con người trồng tỉa lấy hoa lợi là chúng nghịch ngợm và phá hoại, ăn khín. Mới đầu chúng đến một vài con, sau rủ nhau đến nhiều hơn, cả nhà cả đàn chim chóc… và người gia chủ trồng tỉa phải tìm cách bảo vệ hoa màu của họ, nguồn sống của họ.
 
Mới đầu họ giăng, cột vài miềng giấy to bản trên một cọc cây cao, nhờ gió đưa qua đưa lại để xua đuổi chim hay quạ đến phá phách, sau lũ chim chóc khôn hơn, không sợ diều hay quạt gió nữa… chúng đến quá tự nhiên, và con người phải làm những hình người nộm bằng rơm, dang tay ve vẩy đuổi cầm thú phá rẫy… những hình nộm này to và giống như một ngưòi thiệt, mà người ta gọi là ông bù nhìn hay người rơm.
 
Cái từ người rơm đã biến mất từ lâu nay, vì chúng ta sửa đổi nhiều nơi, đồng quê thành phố thị, việc trồng tỉa cũng chuyển đổi sang kỹ nghệ, sản xuất máy móc nhiều lắm. Nhưng gần đây lại có người nhớ lại chuyện người rơm, và người rơm cũng tiến bộ đang lần mò về nơi phố thị… dù là họ bị săn đuổi kín đáo hay rầm rộ hàng loạt.
 
Người rơm, thưa, theo định nghĩa đơn thuần, là một hình nộm giả làm người, để dọa nạt chim muông bằng sự hiện diện vô hồn.
 
Người rôm không có căn cước, không có một điều gì cố định, coi như vô hồn, vô nhân tính, vô tự vệ… nhưng những ý niệm ban đầu như thế đó chỉ còn đúng cỡ một phần nào… vì người rơm nay tiến bộ và biết chạy trốn, biết tự di chuyển và có cảm nhận an nguy đến tính mạng. Bằng chứng là câu chuyện sau đây: Cô Tâm là chủ một quán ăn khá khang trang ở ngoại ôn thành phố Toulouse, cô kể một câu chuyện vô lý và cũng có lý và khá tội nghiệp như sau:
 
Một hôm đấy cô đi mua đồ chợ, chợ ngoài trời bán đồ tươi và rẻ. Mua xong khá nhiều món để làm hàng bán cô tự chất đồ lên xe một mình nên khá mỏi tay, lúc démare xe, xe nổ máy, cô sang số và quay xe ra khỏi hàng lối xe đậu dài bên lề đường, rồi phía ngoài có đông người qua lại quá, cô vô ý lỡ đụng mạnh vào đuôi cái xe citroën đậu ngay phía trước xe cô rầm dĩ nhiên là cô có lỗi vì đã làm vỡ đèn xe, làm xệ cái chắn sau xe của người ta, khi xe người ta đang đậu.
 
Cô giựt mình dòm sang phía trước, người chủ xe bị cô đụng phải, đang ngồi trong xe, đang coi một bản đồ thì phải, cô hú hồn vì nếu cô va lỡ mạnh hơn chút xíu nữa thì có thể đã làm chấn thương người chủ xe đó…
 
Biết mình có lỗi, cô mở cửa xe bước xuống đường và đi tới trước, chủ ý thương lượng, cô chào, đó là một người Á Đông nhưng màu da hơi đậm, hẳn là không phải đồng hương, anh ấy là người Lào hay Miên hay lai gì đó, anh ấy cũng gật đầu chào lại cô và uể oải bước xuống, đi vòng ra đuôi xe xem sự thể hư hỏng do va chạm gây ra đến độ nào. Cô nói với chủ xe hư là đúng cô phạm lỗi và cô phải bồi thường tiền sửa chữa.
 
Cô đề nghị cả hai mang xe đến một garage gần đó, nhưng người đối diện viện cớ anh không có thời giờ. Rồi anh đề nghị cô cứ trả anh khoảng 100 euros là đủ để sửa chữa… cô có ý phản bác, vì không muốn làm sai luật, cô đề nghị cà hai làm một cái constat amiable. Người chủ xe hư đồng ý, hắn nói để hắn trở vào xe lấy giấy tờ làm biên bản. Cô nghĩ mình cũng trở lại xe, mở coffre lấy giấy tờ sửa soạn làm… cô ngồi vào và tìm soạn vì thú thiệt là giấy tờ trong xe cô để, bỏ hơi loạn xạ, mất trật tự, kiếm mãi mới ra được cái bằng lái.
 
Rồi cô chợt ngửng lên và thấy một chiếc xe, trước cái xe hư, quẹo ra đường đi tới, cũng bất ngờ, cái xe cô vừa làm bể đèn sau cũng được tài xế của nó quẹo ra ngoài lộ và chạy vù theo cái xe trước.
 
Cô bị bất ngờ khó hiểu, tại sao hắn không chịu chờ cô làm giấy tờ và như sau đó, cô có thể trả ngay khổ chủ 100 euros cũng ok, tại sao hắn lái xe cái vù đi như bị ma đuổi vậy là sao? Cô lại phải xuống xe xem hư thực ra sao? Đằng sau cô là xe của một bà đầm, bà ta nãy giờ chứng kiến màn kịch câm giữa cô Tâm và chủ xe citroën bị đụng. Bà không hiểu ngôn ngữ trao đổi vì ở hơi xa, có nghe gì đâu, mà bà ta thiệt là thông minh, bà đã hiểu tất cả… bả tiến tới, biểu:
 
Thôi, mày de xe ra đi, cho tao tiện ra luôn, nãy giơ tao chờ lâu khá lâu rồi nhe!
 
Thế… thì giờ tôi phải làm sao?
 
Mày đi đi chớ còn đợi gì nữa!
Bà thấy đó, bà đã hiểu… và tôi không hiểu sao nó không đợi tôi régler mọi thứ.
 
Nó vội lắm… vội lắm… bị nó là người rơm. Il est épouvantail dans un champs de melons!
 
Tâm hơi sững sờ, à ra thế, bây giờ vẫn có người rơm sống trong xã hội ư? Tội nghiệp quá… cô ân hận đã không trao 100 euros cho anh ta.
 
À ra thế, bây giờ người rơm không phải là ông bù nhìn vô hồn nữa, mà là một con người thiệt người, chỉ vì họ không có giấy tờ tùy thân để sống ở xứ sở hiện tại, họ phải len lỏi tới nơi này làm việc lén, không khai báo, làm vụng trộm để kiếm ăn và nuôi gia đình họ… họ cần sinh tồn nên phải trở thành người rơm… chung quy tất cả là do đói nghèo. Ở những người rơm này, ở những người ăn xin, hay tàn tật… thật là buồn, vì có lúc chúng ta thấy ở họ, có một sự chấp nhận, đến bình an, hay là họ đang có tâm trạng của những người tự nhận mình đang trả nghiệp? «Hỡi trần gian hỗn loạn và điên dại này, ta vẫn cứ phải sống và yêu thương mi!»
 
Mời bạn đi thêm vào luận về người rơm. Bạn cố nhớ xem, trong một lần trong hội nghị nào đó, dường như đức Dalai Lama có nói một câu rất khiêm tốn dựa theo luận giải trung quán, là sự vật chỉ có ý nghĩa trong mối tương quan với các sự vật khác.
 
Nếu chúng ta xác định được là sự vật và sự việc nhiều khi ở sát khít bên nhau, thì mọi sự việc đều có ý nghĩa trong mối tương quan với tất cả đa phần các sự việc khác.
 
Bằng chứng là có kẻ trồng bắp gieo hạt, mới có bầy chim chóc tìm tới bươi móc, ăn khín và mới có ông bù nhìn hay người rơm xua đuổi.
 
Dù đuổi mấy thì chúng vẫn tới, vì cần ăn để sống, con vật cần sống, con người cũng cần sống, cần sinh tồn. Ai may mắn thì thành công, người rơm có ngày tiến thành người thiệt. Ai không may thì thất bại, thì rơm vẫn luôn luôn là rơm, là sống chui rủi ngoài vòng pháp luật.
 
Chim thiên di theo mùa bay đi tìm nắng ấm. Cá hồi bơi ngược dòng về đầu sông để sinh sôi nẩy nở.
 
Theo quy luật tự nhiên, người nghèo khó ở các xứ sở mạt vận, vô phương kiếm ăn, họ phải bỏ quê hương bản quán tha phương cầu thực. Người di dân tìm tới vùng đất lành chim đậu như Mỹ, một phần Tây Âu, Canada, Úc v.v… họ tránh xa các nước cộng sản như Bắc Hàn, Nga… tình trạng kinh tế thế giới ngày càng khó khăn, nạn nhân mãn, người đông, của cải ít lần, thì tình trạng người rơm hiện nay là rất thịnh hành ở rất nhiều nơi, nơi họ có thể tạm sống qua ngày.
 
Người rơm, họ, phải sống chui lủi và phải làm những công việc vất vả mà nhiều người khác không muốn làm. Ít nhiều gì họ cũng mong ước có ngày trở thành người thiệt, thoát kiếp rơm. Con người ai cũng muốn sống đúng, sống lương thiện, có ai luôn luôn muốn luồn cúi trốn chạy? Nghĩ cho cùng, tình cảnh người rơm thiệt đáng thương và đau lòng trong đồng loại.
 
Tình trạng người rơm ở Mỹ đang bị ICE dồn vây xua đuổi mạnh hơn bao giờ hết. Nhìn họ bị còng tay như tội phạm xếp hang dồn lên máy bay… ta tự hỏi:
 
Người đang cư xử với người? Vậy sao?
 
Hay người đang cư xử với loài vật?
 
Hay loài vật đang hành xử với đồng loại của chúng?
 
Tùy bạn tìm ra câu trả lời. Nhưng đa phần ai cũng mũi lòng trước thảm cảnh bi đát này.
 
Thêm nữa, một em học sinh trong trường lớp bị bạn bè dọa nạt là sẽ bị đuổi đi. Em bị áp lực mạnh đến tự phải kết liễu cuộc sống! Là lỗi tại ai? Ai đang can tội sát sanh này? Lấy đâu ra năm triệu hay năm tỷ đô la để mua cho mỗi người rơm một cái thẻ vàng cư trú ở đất nước của Trump.
 
Rồi đây, người Việt Nam trở về lại quê hương, cũng rất khó khăn tạo dựng lại một cuộc sống đã thay đổi lâu ngày. Chắc là cũng sẽ có ít nhiều thảm cảnh xẩy ra.
 
Tất cả sự việc vây quanh người rơm đang rối tung mà không biết tới bao giờ mới giải quyết êm.
 
Thưa bạn, là thuở xa xưa lắm, ở núi Tuyết Sơn, có một con chim Oanh Vũ, cha mẹ nó bị mù, con chim thường đi tìm trái chín, lúa non về nuôi cha mẹ. Lúc bấy giờ có một vị điền chủ, chuyên cấy loại lúa thơm và ông có phát nguyện rằng: “lúa của tôi đây, xin nguyện cho chúng sanh đói, cần, cứ dùng".
 
Chim Oanh Vũ thấy điền chủ phát nguyện như vậy, phát tâm bố thí, nên chim thường ngày đến lượm lúa. Một hôm, người tá điền của chủ thấy cứ con chim đó ngày nào cũng tới, liền đặt lưới bắt. Khi bị chủ ruộng hỏi: người lấy lúa hoài vậy sao? Chim đáp: ông bảo có lòng bố thí, tôi có cha mẹ mù, nên phải lấy lúa về nuôi. Người chủ cảm động, thả Oanh Vũ ra và nói: từ nay về sau ngươi tự do lấy về dùng.
 
Câu chuyện cho thấy, người sơ đẳng thuở xa xưa, thiệt xưa còn biết thương đói khổ của muôn loài, thiệt đáng nhớ thay!
 
Bạn ơi, chim Oanh Vũ là tiền thân của đức phật chủ điền là tiền thân của ngài Xá Lợi Phất.
 
Mong cầu mọi tai nạn mau qua đi. Trả lại yên bình thường hằng cho nhân loại.
  
Paris, cuối mùa đông 2025
Chúc Thanh

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Dần dà, cũng từ chiếc xe lăn, cô suy nghĩ lại tất cả những gì đã xẩy ra trong cuộc đời ngắn ngủi của mình. Cô học được điều đầu tiên: sự kiên nhẫn. Với sự kiên nhẫn, cô tin rằng mình có thể học làm được nhiều thứ, dù phải ngồi xe lăn. Kế tiếp, cô học được sự cảm thông với nỗi bất hạnh của người khác. Như cha mẹ cô, gia đình cô đã cảm thông với cô và hết lòng thương yêu cô, trước cũng như sau tai nạn. Nếu cô cứ mãi mãi ngồi xe lăn, không thể làm việc để tự nuôi sống mình, hẳn cha mẹ và gia đình cô cũng sẽ rất vui vẻ lo lắng cho cô suốt đời.
Đang sắp hàng trong tiệm Hamburgers Fuddruckers, bà Dung nghe giọng nữ từ phía sau, hỏi bằng tiếng Anh: -Bà ơi! Tí nữa bà ngồi bàn nào bà làm ơn cho tôi ngồi cùng bàn với. Quay lui, thấy một phụ nữ Á Đông mang “mask”, bà Dung – cũng mang “mask” – có vẻ lưỡng lự, phân vân. Phụ nữ nhìn vào mắt bà Dung với ánh nhìn thiết tha, tiếp: -Bà đừng ngại, tôi chích ngừa Covid-19 rồi.
Cái xóm trọ này ngất ngư trong cơn nắng hạ bao nhiêu năm nay, cái nắng cái nóng có khó khổ mấy cũng còn chịu được. Ai cũng bám trụ để mưu sinh, lo cho con cái và gia đình, nhưng cái nóng hầm hè chống dịch thì tàn nhẫn hơn, nó làm cho người ta cạn kiệt cả vật chất lẫn tinh thần. Ngồi nhà cả tháng, ăn uống dù có tém gọn đến độ không thể nào gọn hơn nữa nhưng vẫn không biết mai này lấy gì ăn, ấy là chưa nói tiền nhà, tiền điện, nước, học hành và trăm thứ hằm bà lằng khác.
Con mèo lại tha về một con gián. Vừa nhác trông thấy, bà cụ nhanh tay túm lấy nó. Con mèo ngao lên một tiếng, làm rơi con gián đang ngo ngoe những cái chân ngắn ngủn xuống nền đất gồ ghề. Bà cụ nhanh tay chộp lấy con gián. Con mèo tròn hai con mắt nhìn. Chuyện xảy ra hoài như thế mà lần nào nó cũng tròn mắt nhìn, như thể chuyện đáng ngạc nhiên ấy mới xảy ra lần đầu. Bà cụ khẽ nắm con gián trong lòng bàn tay. Những ngón xương xẩu co lại thành cái lồng hẹp. Bà bước vội ra góc căn chòi lụp sụp. Mở hé nắp vung cái nồi đất đặt cạnh ba hòn gạch của cái bếp lò trơ trụi mớ tro xám, cẩn thận thả con gián vào nồi và nhanh tay đóng vội nắp vung. Cái rãnh nước bên lề con hẻm khô queo đã nửa tháng nay, từ lúc những quán ăn ngoài phố phải đóng cửa ngừa dịch, nên cánh con gián cũng khô, bà cụ yên tâm, không sợ lây nhiễm cái bệnh quỷ quái.
Y nhướng mắt nhìn xuyên màn đêm, thân thể bất động, cổ khô khát, tiếng tích tắc của đổng hồ quả lắc vẫn đều đều như gõ vào cái chuông tâm thức của y. Chợt có tiếng cù rúc của con cú kêu ngoài vườn. Y bất chợt lạnh sống lưng, người ta vẫn bảo rằng, khi cú kêu là có người sắp chết. Y vốn không tin, cho đó là quan niệm mê tín của dân gian, nhưng trong cái khoảnh khắc vừa trải qua cơn ác mộng.
Dì phước ra về. Cuốn Kinh Thánh nằm lại trên mặt chiếc bàn gỗ cạnh đầu giường. Cuốn sách bìa đen, cạnh giấy mạ vàng có sợi chỉ đỏ để đánh dấu đoạn đang đọc. Sợi chỉ đỏ nằm ở trang nào hắn cũng không buồn để ý tới. Dì phước dặn thì cũng cố ngoan ngoãn gật đầu cho bà vui chứ thời buổi này làm gì có ai làm phép lạ mà mơ tưởng. Ngày nào dì phước cũng lại, quanh quẩn bên những giường bệnh, giúp đỡ lặt vặt đám người đã mang bản án tử hình. Nhưng hôm nay dì phước không đến. Mà trời thì cứ mưa rả rích. Mẫu đối thoại hôm qua cứ chạy đi chạy lại trong đầu hắn như đoạn băng nhựa cũ kỹ. Ma sơ đừng đọc Thánh Kinh nữa được không? Được chứ. Thôi thì dì để cuốn Kinh Thánh đây, lúc nào buồn con mở thử một trang đọc xem sao nhé. Một đoạn cũng được nữa. Nghe Tâm. Hắn thở dài âm thầm, rồi thở dài ra tiếng cũng chẳng ai đoái hoài. Trời ơi, mưa gì mà mưa hoài. Chán bỏ mẹ! Chả lẽ mở thử cuốn sách bìa đen ấy ra, đọc một đoạn cho đỡ buồn. Hắn nhoài người ra trước, lật những trang sách, rồi mở hẳn cuốn Thánh Ki
Tháng bảy, 1995. Tàu vào quân cảng Sembawang, Singapore để dự một sự kiện lớn. Có đại sứ Hoa Kỳ và nhân viên tòa đại sứ đến dự, nhờ vậy mà tôi gặp được thằng Hùng, đại úy Biên Phòng (US Coast Guard), được biệt phái qua Singapore làm việc trong tòa đại sứ. Biên phòng Hoa Kỳ mà làm việc ở Singapore? Tôi có thắc mắc đó nhưng bận công việc nên không rảnh để hỏi. Không nói chuyện được nhiều nên tôi và Hùng hẹn nhau đi ăn tối - hy vọng có thời giờ nói chuyện thêm.
Sáu giờ sáng. Vừa mới thức dậy, My xem liền tin nhắn của gia đình trong cell phone. Mấy chị em vẫn thường dùng cách “text” để trò chuyện với nhau. Bên này là sáng sớm, bên Việt Nam mọi người đã ăn xong cơm tối. Em gái út nhắn: “Hôm nay chùa cho mấy ổ bánh mì, để trước nhà, mình ra lấy.” My trả lời: “Vậy sao? Tốt quá! Bữa trước em nói thèm bánh mì nhưng không đi mua được. Nay thì ước gì được nấy rồi nhé!”
Mười bảy tuổi đã làm mẹ. Cô gái ấy rụt rè như đứa trẻ. Cô đứng nhìn đứa bé sơ sinh như nhìn một vật lạ. Đứa bé có nước da vàng sậm. Người ta đặt nó trong lồng kính. Cô y tá bảo đó là cái incubator. Cái lồng ấp. Ấp đứa bé như người ta ấp trứng. Nhưng cái lồng ấp trong bệnh viện hôm nay không ấp trứng mà ấp đứa bé mới chào đời. Bác sĩ bảo cơ thể hài nhi tự nó chưa đủ khả năng biến dưỡng chất mật nên bilirubin tràn lan trong máu và đọng lại dưới da, thành ra da đứa bé màu vàng sậm. Bệnh viện đặt con của cô trong lồng ấp vài hôm dưới ánh đèn màu xanh da trời để tia sáng giúp làm tan bớt chất sắc tố mật đọng dưới da. Người mẹ đứng vẩn vơ bên cạnh cái lồng ấp. Đứa bé có miếng vải che hai con mắt để tia sáng khỏi làm hư nhãn cầu. Mười bảy tuổi. Người mẹ vừa mới qua cái tuổi dậy thì; cái tuổi (lẽ ra) bận rộn với đèn sách và (dĩ nhiên) tíu tít những hẹn hò.
Tháng bảy đối với gia đình tôi có nhiều chuyện không thể nào quên: vui buồn, đau khổ, tuyệt vọng rồi thành công…. Xin tri ân tất cả những gì đã trải qua, những ơn phúc được ban bố, những kết quả trong hiện tại. Xin tri ân cơ hội làm lại cuộc đời tại quê hương thứ hai này. Và tận trong lòng tôi, mãi mãi câu chuyện mảnh giấy nhỏ Ba tôi thả từ xe bịt bùng báo tin: Ba đã bị đưa đi trại 1 Tiên Lãnh và cậu bé Bồ Tát nhặt được đem giao tận tay anh Hai tôi luôn là câu chuyện nhiệm màu không giải thích được.
Trong tiếng hò reo của các ủng hộ viên Ý và hạnh phúc vỡ òa của đội Ý, từ một góc khán đài danh dự của sân vận động Wembley ở Luân Đôn, "hoàng tử bé" George buồn muốn khóc. Bên cạnh vua tương lai của nước Anh là cha mẹ của em -Hoàng tử William và Công nương Catherine- cũng không giấu nỗi thất vọng khi đội tuyển Anh để vuột mất cúp vô địch Châu Âu nằm trong tầm tay với.
Đám tang vỏn vẹn chỉ có hơn chục người đến viếng, những người tới đây đều chép miệng xót thương cho hai chị em còn nhỏ mà đã mồ côi cả bố lẫn mẹ. Nhìn đứa em nhỏ dại ngồi nghịch những gói đường, hộp sữa người tới viếng mang cho mà Thương không cầm được nước mắt.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.