Hôm nay,  

Giáo Dục

06/04/202519:42:00(Xem: 2549)
tranh Huynh Le Nhat Tan
Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn



My god, came into this world to give life…
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức, thầy Minh Niệm.
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách
Chúc Thanh

 



Năm trăm năm trước công nguyên, khi phật Thích Ca còn tại thế, ngài du hóa, du hành không mệt mỏi khắp nơi nơi để giảng pháp, giảng pháp là ngài dậy về phật pháp cho được nhiều người bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, ngài giảng pháp và cũng là làm việc giáo dục đối với mọi chúng sanh khi ngài còn tại thế.

 

Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà.

 

Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai.

 

Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.

 

Bà cảm nhận như hơi ấm và niềm an ủi của Sa Môn Cồ Đàm tỏa ra vây bọc mẹ con bà, bà lấy lại bình tĩnh xin phật cứu con bà sống lại. Bà kể lể con bà mất vì bệnh hiểm nghèo và nó mất quá sớm.

 

Sa Môn Cồ Đàm đứng lặng nghe người mẹ kể lể. Rồi ngài trầm tư giây lát và phán rằng:

 

Này người, con hãy đi trong khắp thành phố này, vào đủ mọi nhà, xem nhà nào mà không có người nào đã chết, nhà ai họ cũng trồng rau cải, cứ nhà nào không có người bị chết, thì con xin họ một hạt cải đó về đây, xem ta có cứu sống được đứa con bé bỏng của con không!

 

Bà mẹ mừng rỡ ôm thi hài con ra đi xin hạt cải, hy vọng nhiều với pháp thần thông của phật, và nhất là với những hạt cải bà xin được, con bà sẽ sống lại.

 

Nhưng rồi hai mẹ con ôm nhau đi hoài, đi mãi, thì nhà nào cũng sẵn có những hạt rau cải, nhưng nhà nào cũng có người mất, người chết đi rồi, người mất cha, người mất mẹ, mất con, có người mất vợ, mất chồng, thậm chí cả anh, em chẳng nhà nào còn sống nguyên vẹn cả nhà, nên họ không cho bà được một hạt cải để làm phép  thấy bà mẹ kể lể, khóc lóc, xúc động bồi hồi… có nhiều nhà mang hạt cải cho đại bà, nhưng rồi họ thú thiệt là họ cũng có chị và cô hay dì đã chết bà lại không dám cầm, sợ mất phép thiêng.

 

Sau cùng, đi rạc cẳng, hai mẹ con quay về gặp đức phật, thưa hết sự thiệt, là con không xin được một hạt cải nào… vì nhà nào cũng có người đã mất… vì cái chết đến với tất cả mọi người và mọi nhà.

 

Mặt trời lặn dần. Bà mẹ ôm thi hài con đứng bên ven đường và ôn lại những câu chuyện trong ngày, bà cũng khua tay vào cái túi rỗng không vì không xin được một hạt cải nào.

 

Tự nhiên bà nhận ra rằng không ai thoát được cái khổ đau vì mất người thân yêu, cái khổ đau này trước đây một ngày bà cứ đinh ninh là có một mình mình phải chịu… ờ đúng vậy, ta có tìm ra được một nhà nào mà chưa có người thân qua đời đâu? Cái chết đến với mọi người trong mọi nhà… vậy ta không phải là ngoại lệ và con ta cũng không phải là người duy nhất phải mất đi!

 

Bà mẹ ôm con trở về quỳ gối bên đức phật và trình thưa:

 

Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu những gì ngài dậy con, cõi vô thường thì cái chết là tự nhiên, nhờ đó con đã thấy chân như, thường hằng.

 

Đức phật gật đầu, nhìn người mẹ mất con với ánh mắt từ bi, ngài chấp nhận lời thỉnh cầu là đưa thần thức đứa bé vào cõi an nhiên của tự tánh.

 

Ngày còn trẻ tôi đã đọc câu chuyện này, tôi hỏi sao phật không dùng phép thần thông mà cứu sống đứa bé? Nhưng ngày nay, tôi đã hiểu là đức phật muốn giáo dục một điều chân như, thường hằng.

 

Là có sống là có sự chết. Tôi rất xúc động khi nghe trong kinh sách biết rõ là câu chuyện có thiệt.

 

Thiệt như mọi lý lẽ vô thường. Vậy chết chỉ là một sự chuyển tiếp… và sống sót không hẳn là đã may mắn và sự chết đi chưa phải là rủi ro. Biết đâu? Trong quá trình chuyển tiếp đó sẽ có nhiều điều mới lạ và kỳ diệu… nhưng không đi mông lung quá xa điều đó. Ở đây phần chánh yếu là chúng sanh được biết rõ, dù là bậc toàn năng, đức phật không can thiệp vào nghiệp lực của bất cứ ai, ngài muốn làm công việc giáo dục cho mọi chúng sanh, để mọi người hiểu, tự hiểu rõ “Thập Nhị Nhân Duyên“ mà tự sống và tự tu tập trong cuộc đời, tự thắp đuốc lên mà đi và ai cũng phải tự làm, không ai làm dùm làm thế cho ai được.

 

Đạo đây không phải là nơi cho người bi quan yếm thế tìm chỗ nương tựa dung thân. Đây là nơi của Bi Trí Dũng… con phật là người tinh tấn, hướng vế đại trí (ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát) người phật tử luôn tinh tấn, tự tìm ra đường đi tới, tự chiến thắng Tham Sân Si trong chính mình trưóc cái vọng động của xã hội xung quanh.

 

Điều cốt yếu, chư phật đưa ra vẫn là sự cần thiết của giáo dục. Giáo dục mang tới đại trí, từ đại trí mới mang tới mở mang và chiến thắng.

 

Ngày nay, thấm buồn và e ngại khi một màn trình diễn đang dàn dựng như muốn chấm dứt hay đảo lộn giáo dục ở một quốc gia đại cường, theo tác giả Kalynh Ngô, nước Mỹ hùng mạnh có vẻ như muốn chấm dứt sứ mệnh vai trò quan trọng của giáo dục… tổng thống muốn xóa bỏ bộ giáo dục ư? Có là sự thiệt không? Chờ đợi và cầu mong đó không phải là khả thi!

 

Ngày xưa xa xưa, Tần Thủy Hoàng đốt sách vở và chôn sống các nho sĩ. Sau 1975, ở Việt Nam, cũng có màn thiêu sống bao nhiêu sách vở giá trị mà bọn cộng sản gọi là văn hóa đồi trụy… nỗi buồn đó, người Việt Nam chẳng bao giờ nguôi.

 

Chúa ơi, phật ơi, xin các ngài hãy đoái thương nhân loại, đoái thương những đứa trẻ con ngoan ngoãn ngây thơ đang cần sự giáo dục!

 

Que le Dieu de paix soit avec nous.

 

Chúc Thanh
Paris tháng 3/2025



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi không phải là thi sĩ, nhưng chắc cũng giống như những thi nhân của đất Việt, thường gửi gấm tâm tình u uất vào những vần thơ của mình. Những bài thơ viết xong, tôi cặm cụi chép vào nhật ký, xen vào những lời than thân trách phận, hờn mây khóc gió. Cuốn nhật ký, tôi cất kỹ trong ngăn kéo ở cái table de nuit cũ kỹ bên cạnh chiếc giường nhỏ trong phòng ngủ. Cũng may là má chưa lục ra đọc lần nào...
Cuối cùng, vợ tôi cũng đồng ý một cách vui vẻ cho tôi lấy vợ bé. Một hành động vượt ra ngoài quan niệm ái tình nghiêm túc của bà. Vợ bé tên Hà, do vợ lớn đặt. Tên khai sinh của Hà là Đỗ thị 451. Vợ lớn nói, số này hên, cộng lại là 10. Hà lai Ái Nhỉ Lan. Ở lứa tuổi gần ba mươi, chưa lấy chồng, không có con, một thân hình phước đức cho bất kỳ người đàn ông nào, sáu mươi bảy tuổi, như tôi.
Kế hoạch của anh ấy thật là hợp lý: anh ấy sẽ giấu tôi phía sau cốp xe Austin-Healey, một chiếc xe dạng rất thấp mà anh vừa mới mua bên Áo và đã tháo kính che gió ra. Chúng tôi chỉ cần đi qua bên dưới rào chắn, trong khi mấy tên cảnh sát nhân dân Vopo*2/ thì bận lo kiểm tra giấy tờ như thường lệ. Rolf đã tính toán nhiều lần, tính đi tính lại, anh lại còn xì bớt hơi các bánh xe: như thế cái xe sẽ không vượt quá 90 cms bề cao. Anh chỉ cần cúi đầu xuống, nhấn mạnh vào cần tăng tốc, thế là chúng tôi sẽ qua bên kia địa phận đất Mỹ! Một "bờ thành" nhỏ làm bằng gạch sẽ bảo vệ tôi khỏi những lằn đạn có thể xảy ra. Và rồi sau đó là tự do...
(Viết cho bằng hữu tháng tư 1954. Chúng tôi 300 thanh niên trình diện trại Ngọc Hà động viên vào Đà Lạt cùng hát bài ca Hà Nội ơi, năm 20 tuổi chưa từng biết yêu. Sau 21 năm chinh chiến, tháng tư 75 khóa Cương Quyết hát tiếp. Bao nhiêu mộng đẹp, tan ra thành khói, bay theo mây chiều. Ngày nay, tháng 7-2024 vào nursing home thăm bạn cùng khóa. Ba anh bạn đại tá lữ đoàn trưởng mũ xanh mũ đỏ cùng đại đội võ bị ra đánh trận Quảng Trị chỉ còn Ngô Văn Định. Ghé lại bên tai nghe Định hỏi nhỏ. /Bên ngoài còn mấy thằng,/ Còn liên lạc được 4 thằng. Ngoài 90 cả rồi.Tôi báo cáo./ Thằng Luyện mới đến thăm./ Định nói./ Luyện nhảy Bắc 21 năm biệt giam mà còn sống. Hay thật./ Tôi nói./ Bạn yên tâm. Ngoài này còn thằng nào chơi thằng đó./ OK bạn còn sống lo cho anh em.)
Năm Giáp Ngọ 1954 có thể gọi là năm đại diện cho tuổi thơ tôi. Chỉ trong một năm 1954 đã có quá nhiều biến cố xảy ra dồn dập trước mắt chú bé mười hai tuổi mà suốt trong đời chưa có thời điểm nào đặc biệt như vậy...
Dẫn nhập: chuyện này được viết khi sắp tròn nửa thế kỷ Sài gòn bị mất tên. Qua một phần đời của một vị Thầy dạy Toán, gắn liền với nhiều thăng trầm của lịch sử từ Việt Nam đến Mỹ, cùng nhìn lại những vết chân xưa với hy vọng các thế hệ kế tiếp học hỏi được nhiều điều để đưa được đất nước trở về vị trí "minh châu trời Đông"
Cây Phượng Vĩ Hoa Vàng có tên khoa học là Delonix regia var plavida thuộc họ Fabaceae có nguồn gốc từ Myanmar được sư trụ trì chùa Huyền Không Sơn Thượng mang về Việt Nam, đầu tiên được trồng ở Huế một số cây dọc theo con đường ở phố Ngô Quyền, ngã ba Phan Bội Châu, Lê Lợi... đã thu hút nhiều du khách đến ngắm cảnh và chụp hình. Hoa phượng vĩ vàng có tuổi đời lên đến 5, 6 chục năm, cây nhỏ hơn hoa phượng đỏ, ít lá và hoa có màu vàng tươi bắt mắt, thường nở từ tháng giêng, tháng hai và nở rộ và khoảng cuối tháng ba, đầu tháng tư, nên còn gọi là loài hoa “ chào mùa hè”. Hoa nở rụng tạo thành một “thảm hoa vàng” trên đường đi, gây nhiều ấn tượng cho những ai đi dạo trên những con đường này. Năm 2005, Công ty công viên cây xanh Sài Gòn mang về trồng một số nơi ở Sài Gòn nhưng chưa được nhiều.
Mùa hè quê tôi không có hoa phượng rơi, mà bắt đầu một mùa nước nổi. Nước lên cao, mênh mông ngập khắp cánh đồng và cả khoảng sân nhà mẹ. Những cơn gió trở mùa mát dịu dàng bao đêm dài mộng tưởng. Ngày sẽ lên, đời ập tới cho dù chúng ta có chờ đợi hay lãng quên. Mẹ tôi báo tin, “Tháng tới là đám cưới con Lệ. Cũng mừng cho con nhỏ, gia đình chồng giàu có. Chỉ tội là nó phải theo chồng đi xa”. Tôi nghe tin, thấy lòng trống trải vô cùng. Một khoảng trống mênh mông, cứ tràn ngập mỗi ngày một lớn. Tôi biết mình đã yêu chị thiết tha...
Trước giờ thi, một cô học trò láu táu, “Thầy bao nhiêu tuổi hả thày?” Câu hỏi từ cặp môi đỏ chót và cái nháy mắt từ cặp lông mi lướt thướt làm cả lớp cười ồ. Hồi ấy tôi vừa mới ba mươi, và tôi là ông thầy giáo bị hỏi câu ấy ngay trong lớp học, cái lớp học có quá nửa số học sinh là nữ, và tôi bị hỏi khi đang giúp học trò ôn bài thi cuối khóa. Quá bất ngờ, ông thầy sựng lại một giây, rồi thong thả trả lời, “Cái này đâu có trong đề thi.” “Em hỏi là tại vì hồi đêm em nằm chiêm bao thấy thày,” cặp môi cong chậm rãi giải thích. Cả lớp chăm chú lắng nghe. Cô học trò gật gù như chờ cho mọi người theo kịp rồi mới tiếp, “Vì vậy em cần biết tuổi thày để mua số đề.”
Năm 2015, Milana đã ba mươi tuổi, đang làm việc trong một công ty Network ở California. Mẹ nàng tỏ ra lo lắng tại sao tuổi này mà không chịu lấy chồng, mà cũng ít thấy có bạn trai; bà e rằng phụ nữ sau ba mươi lăm tuổi khó sanh nở. Nhưng nàng có lý do riêng không nói được với ai...
Cái tên Pulau Bidong nghe rất đỗi thân thương và gần gũi với nhiều người vượt biển Việt Nam lánh nạn cộng sản từ sau năm 1975 và cũng là biểu tượng của ngưỡng cửa Tự Do mà nhiều người mơ ước. Mảnh đất nhỏ bé này là một hải đảo, cách xa tiểu bang Terengganu của Malaysia khoảng một giờ đi thuyền. Nếu có cơ hội, những người thuyền nhân năm xưa nên trở lại, chỉ một lần thôi, thực hiện một cuộc hành hương trở về vùng đất Thánh. Dù không phải là một cựu thuyền nhân tạm dung nơi hải đảo hoang vu này, đôi chân lạ lẫm không quen của tôi đã đặt chân lên Pulau Bidong trong một chuyến du lịch ngẫu hứng, cho ký ức quãng đời tỵ nạn ngày xưa lần lượt trở về trong tôi.
Tả sao cho hết cảnh cổng lớn đồ sộ. Từ chân lên đến đỉnh, tràn ngập mặt nạ treo kín mít. Đủ loại mặt nạ tượng trưng cho thiện ác, xấu đẹp, đúng sai. Có cả mặt nạ Chúa, Phật, thánh thần, hiền nhân, ác tặc, vân vân. Dọc bên dưới là những thùng lớn chứa vô số mặt nạ theo kiểu treo bên trên. Người nào đi vào, tự động lựa cho mình một loại mặt nạ hợp với tính tình, mang lên, rồi mới được tiếp tục đi. Mỗi người có hai mặt nạ, một thật đã thói quen thành giả và một giả thật chồng lên.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.