Hôm nay,  

Giáo Dục

06/04/202519:42:00(Xem: 2537)
tranh Huynh Le Nhat Tan
Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn



My god, came into this world to give life…
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức, thầy Minh Niệm.
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách
Chúc Thanh

 



Năm trăm năm trước công nguyên, khi phật Thích Ca còn tại thế, ngài du hóa, du hành không mệt mỏi khắp nơi nơi để giảng pháp, giảng pháp là ngài dậy về phật pháp cho được nhiều người bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, ngài giảng pháp và cũng là làm việc giáo dục đối với mọi chúng sanh khi ngài còn tại thế.

 

Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà.

 

Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai.

 

Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.

 

Bà cảm nhận như hơi ấm và niềm an ủi của Sa Môn Cồ Đàm tỏa ra vây bọc mẹ con bà, bà lấy lại bình tĩnh xin phật cứu con bà sống lại. Bà kể lể con bà mất vì bệnh hiểm nghèo và nó mất quá sớm.

 

Sa Môn Cồ Đàm đứng lặng nghe người mẹ kể lể. Rồi ngài trầm tư giây lát và phán rằng:

 

Này người, con hãy đi trong khắp thành phố này, vào đủ mọi nhà, xem nhà nào mà không có người nào đã chết, nhà ai họ cũng trồng rau cải, cứ nhà nào không có người bị chết, thì con xin họ một hạt cải đó về đây, xem ta có cứu sống được đứa con bé bỏng của con không!

 

Bà mẹ mừng rỡ ôm thi hài con ra đi xin hạt cải, hy vọng nhiều với pháp thần thông của phật, và nhất là với những hạt cải bà xin được, con bà sẽ sống lại.

 

Nhưng rồi hai mẹ con ôm nhau đi hoài, đi mãi, thì nhà nào cũng sẵn có những hạt rau cải, nhưng nhà nào cũng có người mất, người chết đi rồi, người mất cha, người mất mẹ, mất con, có người mất vợ, mất chồng, thậm chí cả anh, em chẳng nhà nào còn sống nguyên vẹn cả nhà, nên họ không cho bà được một hạt cải để làm phép  thấy bà mẹ kể lể, khóc lóc, xúc động bồi hồi… có nhiều nhà mang hạt cải cho đại bà, nhưng rồi họ thú thiệt là họ cũng có chị và cô hay dì đã chết bà lại không dám cầm, sợ mất phép thiêng.

 

Sau cùng, đi rạc cẳng, hai mẹ con quay về gặp đức phật, thưa hết sự thiệt, là con không xin được một hạt cải nào… vì nhà nào cũng có người đã mất… vì cái chết đến với tất cả mọi người và mọi nhà.

 

Mặt trời lặn dần. Bà mẹ ôm thi hài con đứng bên ven đường và ôn lại những câu chuyện trong ngày, bà cũng khua tay vào cái túi rỗng không vì không xin được một hạt cải nào.

 

Tự nhiên bà nhận ra rằng không ai thoát được cái khổ đau vì mất người thân yêu, cái khổ đau này trước đây một ngày bà cứ đinh ninh là có một mình mình phải chịu… ờ đúng vậy, ta có tìm ra được một nhà nào mà chưa có người thân qua đời đâu? Cái chết đến với mọi người trong mọi nhà… vậy ta không phải là ngoại lệ và con ta cũng không phải là người duy nhất phải mất đi!

 

Bà mẹ ôm con trở về quỳ gối bên đức phật và trình thưa:

 

Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu những gì ngài dậy con, cõi vô thường thì cái chết là tự nhiên, nhờ đó con đã thấy chân như, thường hằng.

 

Đức phật gật đầu, nhìn người mẹ mất con với ánh mắt từ bi, ngài chấp nhận lời thỉnh cầu là đưa thần thức đứa bé vào cõi an nhiên của tự tánh.

 

Ngày còn trẻ tôi đã đọc câu chuyện này, tôi hỏi sao phật không dùng phép thần thông mà cứu sống đứa bé? Nhưng ngày nay, tôi đã hiểu là đức phật muốn giáo dục một điều chân như, thường hằng.

 

Là có sống là có sự chết. Tôi rất xúc động khi nghe trong kinh sách biết rõ là câu chuyện có thiệt.

 

Thiệt như mọi lý lẽ vô thường. Vậy chết chỉ là một sự chuyển tiếp… và sống sót không hẳn là đã may mắn và sự chết đi chưa phải là rủi ro. Biết đâu? Trong quá trình chuyển tiếp đó sẽ có nhiều điều mới lạ và kỳ diệu… nhưng không đi mông lung quá xa điều đó. Ở đây phần chánh yếu là chúng sanh được biết rõ, dù là bậc toàn năng, đức phật không can thiệp vào nghiệp lực của bất cứ ai, ngài muốn làm công việc giáo dục cho mọi chúng sanh, để mọi người hiểu, tự hiểu rõ “Thập Nhị Nhân Duyên“ mà tự sống và tự tu tập trong cuộc đời, tự thắp đuốc lên mà đi và ai cũng phải tự làm, không ai làm dùm làm thế cho ai được.

 

Đạo đây không phải là nơi cho người bi quan yếm thế tìm chỗ nương tựa dung thân. Đây là nơi của Bi Trí Dũng… con phật là người tinh tấn, hướng vế đại trí (ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát) người phật tử luôn tinh tấn, tự tìm ra đường đi tới, tự chiến thắng Tham Sân Si trong chính mình trưóc cái vọng động của xã hội xung quanh.

 

Điều cốt yếu, chư phật đưa ra vẫn là sự cần thiết của giáo dục. Giáo dục mang tới đại trí, từ đại trí mới mang tới mở mang và chiến thắng.

 

Ngày nay, thấm buồn và e ngại khi một màn trình diễn đang dàn dựng như muốn chấm dứt hay đảo lộn giáo dục ở một quốc gia đại cường, theo tác giả Kalynh Ngô, nước Mỹ hùng mạnh có vẻ như muốn chấm dứt sứ mệnh vai trò quan trọng của giáo dục… tổng thống muốn xóa bỏ bộ giáo dục ư? Có là sự thiệt không? Chờ đợi và cầu mong đó không phải là khả thi!

 

Ngày xưa xa xưa, Tần Thủy Hoàng đốt sách vở và chôn sống các nho sĩ. Sau 1975, ở Việt Nam, cũng có màn thiêu sống bao nhiêu sách vở giá trị mà bọn cộng sản gọi là văn hóa đồi trụy… nỗi buồn đó, người Việt Nam chẳng bao giờ nguôi.

 

Chúa ơi, phật ơi, xin các ngài hãy đoái thương nhân loại, đoái thương những đứa trẻ con ngoan ngoãn ngây thơ đang cần sự giáo dục!

 

Que le Dieu de paix soit avec nous.

 

Chúc Thanh
Paris tháng 3/2025



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi là người viết báo nghiệp dư. Từ khi khởi viết vào năm 1959, tay cầm viết luôn là nghề tay trái. Tôi sống bằng nghề tay phải khác. Cho tới nay, nghề chính của tôi là…hưu trí, viết vẫn là nghề tay trái. Tôi phân biệt viết báo và làm báo. Làm báo là lăn lộn nơi tòa soạn toàn thời gian hoặc bán thời gian để góp công góp sức hoàn thành một tờ báo. Họ có thể là chủ nhiệm, chủ bút, tổng thư ký, thư ký tòa soạn hay chỉ là ký giả, phóng viên. Nhưng tôi nghĩ người quan trọng nhất trong tòa soạn một tờ báo là ông “thầy cò”. Thầy cò ở đây không có súng ống hay cò bóp chi mà là biến thể của danh từ tiếng Pháp corrector, người sửa morasse. Morasse là bản vỗ một bài báo cần sửa trước khi in.
Sáu tuần. Nàng đã đi ra khỏi mụ mị từ trong mối tình hiện tại của mình. Cô bạn gái hỏi "Tỉnh chưa?". Tỉnh rồi, nhưng tỉnh không có nghĩa không yêu anh ấy nữa, chỉ là không còn mụ mị mê muội nữa thôi...
Trong bóng tối dày đặc, dọ dẫm từng bước một, hai tay vừa rờ vào hai bên vách hang động, vừa quơ qua quơ lại trước mặt, dù cố mở mắt lớn, chỉ thấy lờ mờ, nhiều ảo ảnh hơn là cảnh thật. Cảm giác bực bội vì đã trợt té làm văng mất ba lô, mất tất cả các dụng cụ, thực phẩm và nước uống cần thiết. Bối rối hơn nữa, đã rớt chiếc đèn bin cầm tay, mất luôn chiếc đèn bin lớn mang bên lưng và máy liên lạc vệ tinh có dự phòng sóng AM. Giờ đây, chỉ còn ít vật dụng tùy thân cất trong mấy túi quần, túi áo khoát và hoàn toàn mất phương hướng. Chỉ nhớ lời chỉ dẫn, hang động sẽ phải đi lên rồi mới trở xuống. Trang nghĩ, mình có thể thoát ra từ lối biển. Là một tay bơi có hạng, nàng không sợ.
Cô người Nha Trang, lớn lên và đi học ở đó. Cô sinh trưởng trong một gia đình gia giáo, mẹ cô đi dậy học, ông thân cô cũng là hiệu trưởng một trường trung học lớn ở Phú Yên. Năm 22 tuổi, cô học năm cuối đại học văn khoa Huế thì gặp gỡ chú Hiếu trong một dịp hội thảo sinh viên do các biến động thời cuộc miền Trung bắt đầu nhen nhúm. Chú Hiếu lúc đó đang theo cao học luật. Họ thành đôi bạn tâm giao tuổi trẻ, sau thành đôi uyên ương. Ba năm sau khi Trang vừa 25 tuổi, Hiếu đã nhậm chức chánh án tòa thượng thẩm.
Nhà trẻ kế bên bệnh xá. Trong góc một trại giam. Nhà trẻ có sáu đứa con nít. Bệnh xá có mấy bệnh nhân già. Coi bệnh xá là một tù nam nguyên là y tá ngoài đời. Coi nhà trẻ là một tù nữ án chung thân. Coi cả hai nơi ấy là một công an mà mọi người vẫn gọi là bác sĩ! Sáu đứa con nít đều là con hoang. Mẹ chúng nó là nữ tù bên khu B, đừng hỏi cha chúng đâu vì chúng sẽ không biết trả lời thế nào. Cũng đừng bao giờ hỏi mẹ chúng nó về chuyện ấy vì rằng đó là chuyện riêng và cũng là những chuyện rất khó trả lời. Thảng hoặc có ai đó được nghe kể thì lại là những chuyện rất tình tiết ly kỳ lâm ly bi đát… chuyện nào cũng lạ, chuyện nào cũng hay
Thăm nuôi năm thứ mười: trại Z30D Hàm Tân, dưới chân núi Mây Tào, Bình Tuy. Cuối năm 1985, mấy trăm người tù chính trị, trong đó có cánh nhà văn nhà báo, được chuyển từ trại Gia Trung về đây. Hồi mới chuyển về, lần thăm nuôi đầu, còn ở bên K1, đường sá dễ đi hơn. Cảnh trí quanh trại tù nặng phần trình diễn, thiết trí kiểu cung đình, có nhà lục giác, bát giác, hồ sen, giả sơn... Để có được cảnh trí này, hàng ngàn người tù đã phải ngâm mình dưới nước, chôn cây, đẽo đá suốt ngày đêm không nghỉ. Đổi vào K2, tấm màn hoa hòe được lật sang mặt trái: những dãy nhà tranh dột nát, xiêu vẹo. Chuyến xe chở người đi thăm nuôi rẽ vào một con đường ngoằn nghoèo, lầy lội, dừng lại ở một trạm kiểm soát phía ngoài, làm thủ tục giấy tờ. Xong, còn phải tự mang xách đồ đạc, theo đường mòn vào sâu giữa rừng, khoảng trên hai cây số.
Ông Hải đứng trước của nhà khá lâu. Phân vân không biết nên mở cửa vào hay tiếp tục đi. Tâm trạng nhục nhã đã ngui ngoai từ lúc nghe tiếng chim lạ hót, giờ đây, tràn ngập trở lại. Ông không biết phải làm gì, đối phó ra sao với bà vợ béo phì và nóng nảy không kiểm soát được những hành động thô bạo.
Vuốt lại tấm khăn trải giường cho thẳng. Xoay chiếc gối cho ngay ngắn. Xong xuôi, hắn đứng thẳng người, nhìn chiếc giường kê sát vách tường. Có cái gì đó thật mảnh, như sợi chỉ, xuyên qua trái tim. Hắn vuốt nhẹ bàn tay lên mặt nệm. Cảm giác tê tê bám lên những đầu ngón tay. Nệm giường thẳng thớm, nhưng vết trũng chỗ nằm của một thân thể mềm mại vẫn hiện rõ trong trí. Hắn nuốt nước bọt, nhìn qua cái bàn nhỏ phía đầu giường. Một cuốn sách nằm ngay ngắn trên mặt bàn. Một tờ giấy cài phía trong đánh dấu chỗ đang đọc. Hắn xoay cuốn sách xem cái tựa. Tác phẩm dịch sang tiếng Việt của một nhà văn Pháp. Cái va li màu hồng nằm sát vách tường, phía chân giường. Hắn hít không khí căn phòng vào đầy lồng ngực. Thoáng hương lạ dịu dàng lan man khứu giác. Mùi hương rất quen, như mùi hương của tóc.
Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?
Hôm nay giống như một ngày tựu trường. Đơn giản, vắng một thời gian không ngồi ở lớp học, nay trở lại, thế là tựu trường. Ngày còn bé, mỗi lần nghỉ hè xong, lên lớp mới, trong lòng vừa hồi hộp vừa vui sướng. Có bao nhiêu chuyện để dành chờ gặp bạn là kể tíu tít. Nhưng bên cạnh đó là nỗi lo khi sắp gặp các thầy cô mới… Mỗi năm đều có ngày tựu trường như vậy, nói chung là khá giống nhau, trong đời học sinh. Nhưng cái ngày tựu trường này thật quá khác. Người ta nhìn nhau không dám cười, không dám chào hỏi. Sự e dè này, dường như mỗi người đã được tập luyện qua một năm. Một năm “học chính trị” trong cái gọi là hội trường mà tiền thân là cái rạp hát.
Cái tên Michelin không xa lạ gì với chúng ta. Vỏ lốp chiếc xe tôi đang dùng cũng mang tên Michelin. Sao hai thứ chẳng có liên quan chi lại trùng tên. Nếu tôi nói chúng tuy hai mà một chắc mọi người sẽ ngây người tưởng tôi… phiếm.
Phi là một người bạn đạt được những điều trong đời mà biết bao người không có. Là một tấm gương sống sao cho ra sống để chết đi không có gì hối tiếc. Là một niềm hy vọng cho sự tử tế vốn ngày càng trở nên xa xỉ ở nước Mỹ mà tôi đang tiếp tục sống.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.