Hôm nay,  

Giáo Dục

06/04/202519:42:00(Xem: 2615)
tranh Huynh Le Nhat Tan
Tranh Huỳnh Lê Nhật Tấn



My god, came into this world to give life…
Xin tri ơn thầy Thích Tâm Đức, thầy Minh Niệm.
Xin tri ơn tác giả Nguyễn Tường Bách
Chúc Thanh

 



Năm trăm năm trước công nguyên, khi phật Thích Ca còn tại thế, ngài du hóa, du hành không mệt mỏi khắp nơi nơi để giảng pháp, giảng pháp là ngài dậy về phật pháp cho được nhiều người bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, ngài giảng pháp và cũng là làm việc giáo dục đối với mọi chúng sanh khi ngài còn tại thế.

 

Một ngày nọ, ngài gặp một bà mẹ, bà ôm một đứa con vừa mất vừa đi vừa khóc lóc thảm thiết, ai cũng mũi lòng thương, thông cảm vì mất con là nỗi đau khổ nhứt trong cuộc đời… người ta mách bảo là bà nên gặp Sa Môn Cồ Đàm, bà sung sướng bế con đã mất đi ngay và gặp phật, xin phật dùng phép thần thông cứu sống con bà.

 

Xung quanh phật, các tì kheo đang ngồi cầu nguyện cho chúng sanh được giải thoát và cũng cầu nguyện cho các chúng sanh còn tại thế sẽ may mắn mà gặp được giáo pháp của Như Lai.

 

Rồi người mẹ đau khổ cũng được gặp phật.

 

Bà cảm nhận như hơi ấm và niềm an ủi của Sa Môn Cồ Đàm tỏa ra vây bọc mẹ con bà, bà lấy lại bình tĩnh xin phật cứu con bà sống lại. Bà kể lể con bà mất vì bệnh hiểm nghèo và nó mất quá sớm.

 

Sa Môn Cồ Đàm đứng lặng nghe người mẹ kể lể. Rồi ngài trầm tư giây lát và phán rằng:

 

Này người, con hãy đi trong khắp thành phố này, vào đủ mọi nhà, xem nhà nào mà không có người nào đã chết, nhà ai họ cũng trồng rau cải, cứ nhà nào không có người bị chết, thì con xin họ một hạt cải đó về đây, xem ta có cứu sống được đứa con bé bỏng của con không!

 

Bà mẹ mừng rỡ ôm thi hài con ra đi xin hạt cải, hy vọng nhiều với pháp thần thông của phật, và nhất là với những hạt cải bà xin được, con bà sẽ sống lại.

 

Nhưng rồi hai mẹ con ôm nhau đi hoài, đi mãi, thì nhà nào cũng sẵn có những hạt rau cải, nhưng nhà nào cũng có người mất, người chết đi rồi, người mất cha, người mất mẹ, mất con, có người mất vợ, mất chồng, thậm chí cả anh, em chẳng nhà nào còn sống nguyên vẹn cả nhà, nên họ không cho bà được một hạt cải để làm phép  thấy bà mẹ kể lể, khóc lóc, xúc động bồi hồi… có nhiều nhà mang hạt cải cho đại bà, nhưng rồi họ thú thiệt là họ cũng có chị và cô hay dì đã chết bà lại không dám cầm, sợ mất phép thiêng.

 

Sau cùng, đi rạc cẳng, hai mẹ con quay về gặp đức phật, thưa hết sự thiệt, là con không xin được một hạt cải nào… vì nhà nào cũng có người đã mất… vì cái chết đến với tất cả mọi người và mọi nhà.

 

Mặt trời lặn dần. Bà mẹ ôm thi hài con đứng bên ven đường và ôn lại những câu chuyện trong ngày, bà cũng khua tay vào cái túi rỗng không vì không xin được một hạt cải nào.

 

Tự nhiên bà nhận ra rằng không ai thoát được cái khổ đau vì mất người thân yêu, cái khổ đau này trước đây một ngày bà cứ đinh ninh là có một mình mình phải chịu… ờ đúng vậy, ta có tìm ra được một nhà nào mà chưa có người thân qua đời đâu? Cái chết đến với mọi người trong mọi nhà… vậy ta không phải là ngoại lệ và con ta cũng không phải là người duy nhất phải mất đi!

 

Bà mẹ ôm con trở về quỳ gối bên đức phật và trình thưa:

 

Bạch Đức Thế Tôn, con đã hiểu những gì ngài dậy con, cõi vô thường thì cái chết là tự nhiên, nhờ đó con đã thấy chân như, thường hằng.

 

Đức phật gật đầu, nhìn người mẹ mất con với ánh mắt từ bi, ngài chấp nhận lời thỉnh cầu là đưa thần thức đứa bé vào cõi an nhiên của tự tánh.

 

Ngày còn trẻ tôi đã đọc câu chuyện này, tôi hỏi sao phật không dùng phép thần thông mà cứu sống đứa bé? Nhưng ngày nay, tôi đã hiểu là đức phật muốn giáo dục một điều chân như, thường hằng.

 

Là có sống là có sự chết. Tôi rất xúc động khi nghe trong kinh sách biết rõ là câu chuyện có thiệt.

 

Thiệt như mọi lý lẽ vô thường. Vậy chết chỉ là một sự chuyển tiếp… và sống sót không hẳn là đã may mắn và sự chết đi chưa phải là rủi ro. Biết đâu? Trong quá trình chuyển tiếp đó sẽ có nhiều điều mới lạ và kỳ diệu… nhưng không đi mông lung quá xa điều đó. Ở đây phần chánh yếu là chúng sanh được biết rõ, dù là bậc toàn năng, đức phật không can thiệp vào nghiệp lực của bất cứ ai, ngài muốn làm công việc giáo dục cho mọi chúng sanh, để mọi người hiểu, tự hiểu rõ “Thập Nhị Nhân Duyên“ mà tự sống và tự tu tập trong cuộc đời, tự thắp đuốc lên mà đi và ai cũng phải tự làm, không ai làm dùm làm thế cho ai được.

 

Đạo đây không phải là nơi cho người bi quan yếm thế tìm chỗ nương tựa dung thân. Đây là nơi của Bi Trí Dũng… con phật là người tinh tấn, hướng vế đại trí (ngài Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát) người phật tử luôn tinh tấn, tự tìm ra đường đi tới, tự chiến thắng Tham Sân Si trong chính mình trưóc cái vọng động của xã hội xung quanh.

 

Điều cốt yếu, chư phật đưa ra vẫn là sự cần thiết của giáo dục. Giáo dục mang tới đại trí, từ đại trí mới mang tới mở mang và chiến thắng.

 

Ngày nay, thấm buồn và e ngại khi một màn trình diễn đang dàn dựng như muốn chấm dứt hay đảo lộn giáo dục ở một quốc gia đại cường, theo tác giả Kalynh Ngô, nước Mỹ hùng mạnh có vẻ như muốn chấm dứt sứ mệnh vai trò quan trọng của giáo dục… tổng thống muốn xóa bỏ bộ giáo dục ư? Có là sự thiệt không? Chờ đợi và cầu mong đó không phải là khả thi!

 

Ngày xưa xa xưa, Tần Thủy Hoàng đốt sách vở và chôn sống các nho sĩ. Sau 1975, ở Việt Nam, cũng có màn thiêu sống bao nhiêu sách vở giá trị mà bọn cộng sản gọi là văn hóa đồi trụy… nỗi buồn đó, người Việt Nam chẳng bao giờ nguôi.

 

Chúa ơi, phật ơi, xin các ngài hãy đoái thương nhân loại, đoái thương những đứa trẻ con ngoan ngoãn ngây thơ đang cần sự giáo dục!

 

Que le Dieu de paix soit avec nous.

 

Chúc Thanh
Paris tháng 3/2025



Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Đây là ngôi làng tiêu biểu của người Amish sinh sống ở vùng này. Làng được dựng lên để giới thiệu với du khách ghé thăm những sinh hoạt hàng ngày và những sản phẩm tiểu công nghệ có tính cách cổ truyền đặc thù của người Amish...
Khi tôi về làm dâu mợ, bà còn khá trẻ, khoảng năm mươi. Bà lanh lẹ, vóc dáng nhỏ và có khuôn mặt vui với nụ cười tươi. Bà luôn niềm nở cởi mở với mọi người. Bà như thế đó, chưa bao giờ làm buồn lòng ai và cũng chẳng ai quấy phiền chi bà...
Tôi đành vay mượn tên nhạc phẩm “Con đường mang tên em” của Trúc Phương để đặt cho con đường nhà tôi vì quá hợp lý luôn, không thể đặt tựa đề khác được. Con đường này dài hơn một cây số nhưng chỉ một đoạn đường ngắn nơi khu buôn bán gần những trại lính thật khó mà tin nổi 9 căn nhà liên tiếp nhau đã có 3 người con gái tên Thanh, thật ngẫu nhiên chúng tôi cùng lứa tuổi mới lớn, lại ngẫu nhiên nữa là có hai người cùng họ Nguyễn Thị…
Cuối tuần rảnh, cú phonetalk hai chị em cỡ chừng… hai tiếng chớ nhiêu! Chị hơn tôi 8 tuổi, cùng trang lứa với mấy ông anh tôi, nhưng vì hai chị em đã có dịp đi vượt biên (hụt) với nhau một chuyến, có hơn một tuần lễ vi vu Miền Tây, ăn ngủ cùng nhau, tâm sự đủ điều. Nhất là đêm cuối cùng chờ tàu lớn ra khơi, cả hai thao thức suốt đêm, nghe cả tiếng lục bình vật vờ trôi sông, rồi kể nhau nghe “chuyện con tim”…
Dường như con người có thể phát tiết ra khả năng kỳ lạ để thích ứng với môi trường và hoàn cảnh sống mà có lẽ chính họ đôi khi cũng không ngờ. Khi một người bị khuyết tật từ thuở ấu thời thì họ có thể phát triển một thứ khả năng kỳ diệu đến mức bất khả tư nghì đề bù đắp lại phần bị mất mát. Người chị Thứ Ba của tôi là điển hình như thế. / It appears to be that people can foster an uncanny capacity to adjust to conditions and circumstances that they may not know about. When a person has a disability since childhood, they can have an incredible ability to compensate for the loss. My Third Sister is such an example.
Không hiểu lý do nào ông bà Hai lấy tên Hụi để đặt cho con mình. Lúc còn nhỏ, Hụi trông khôi ngô sáng sủa lắm. Hụi lại ít bị bệnh hoạn và rất chóng lớn. Năm lên bốn tuổi, Hụi đã lớn kịp anh ruột mình là Hùng, lớn hơn Hụi hai tuổi. Hai anh em cũng ham chơi, cũng nghịch ngợm như bao trẻ con cùng trang lứa trong vùng...
Thật ra, cho đến ngày "tan hàng" khăn gói đi tù, Nhạc chưa có một căn nhà cho vợ con chui ra, chui vào. Là một sĩ quan ở đơn vị tác chiến, anh chẳng có phương tiện gì để làm ra tiền, ngoài một đám lính chỉ biết bóp cò, gài mìn và hô xung phong, khi đụng trận. Với số lương trung úy, cộng thêm một vợ, ba con, được khoảng bốn chục ngàn đồng một tháng, mà tiền để xây hay mua một căn nhà nho nhỏ cũng gần hơn triệu bạc, nên Nhạc cứ khất đi, khất lại hoài, với Hậu...
Người Việt bị người Tàu đô hộ hàng ngàn năm, các triều đại phong kiến Tàu ra sức hủy diệt văn hóa Việt, đồng hóa người Việt, sáp nhập đất Việt vào đất Tàu. Lịch sử cho thấy họ không thể làm được việc đó. Người Việt vẫn giữ được nước và bản sắc văn hóa riêng của mình, tuy nhiên bị ảnh hưởng nặng nề về văn hóa, ngôn ngữ, lịch sử, tư tưởng, thể chế chính trị…
Buổi sáng thênh thang. Nắng dịu dàng vướng trên những ngọn cây. Được nghỉ hai giờ đầu, thằng bé học trò chạy xe qua Phú Nhuận, thả dài lên Tân Định hóng gió. Sài Gòn sớm mai như cô gái vẫn còn ngái ngủ. Tóc mượt mà đen thẫm trên mặt gối trắng tinh. Thằng bé học trò không biết đi đâu. Một tay cầm chắc tay lái chiếc Honda Dame, tay kia thỉnh thoảng lại đưa lên đẩy cặp mắt kính cận cứ chực tuột xuống. Cặp mắt kính thay đã lâu lắm rồi, bây giờ nhìn mọi thứ đã bắt đầu mờ ảo, nhưng chưa dám xin tiền bố mẹ để thay. Con đường Hai Bà Trưng ngập nắng. Chợt một tấm biển quảng cáo phía trên một cửa tiệm đập vào mắt thằng bé học trò. Và nó sực nhớ đã đến lúc phải khám, phải đo xem mắt có tăng độ hay không rồi. Hai con mắt không cận thị bằng nhau, một bên ba độ rưỡi, một bên hai độ bảy mươi lăm. Và cả hai bên nhìn cuộc sống đều nhòe nhoẹt như nhau.
An lớn lên bên cạnh mẹ từ tấm bé, đến khi có trí khôn hiểu biết em cũng chỉ thấy có mẹ. Em không thắc mắc dù trên khai sinh của em tên cha là vô danh. Một đôi lần hiếm hoi lúc mẹ con gần khít bên nhau, rảnh rang như đi hè, ngồi trên bãi biển, trời cao gió mát, biển mênh mông, An vô tình hỏi mẹ vô danh là gì? Mẹ trả lời là không có tên, rồi mẹ cũng giải thích thêm là, ba đi buôn bán xa, tận ngoài Bắc hay đâu đó, bên tàu bên tây, đi lâu quá là lâu rồi, cũng quên liên lạc về nhà nên phải khai như vậy, đặng con có giấy khai sinh đi học...
Thỉnh thoảng, tôi vẫn hồi tưởng lại thời gian hai năm dịch Covid hoành hành, chuyện khẩu trang, cách ly, hand sanitizers, vaccine Pfizer, Astrazeneca... đặng mai mốt còn kể lại cho đám cháu chắt nghe. Chúng sẽ không thể tưởng tượng nổi những cảm xúc mà chúng ta đã trải qua, lo lắng, buồn phiền, âu sầu với những hệ lụy còn kéo dài sau đó. Nhưng hôm nay tôi xin nhớ lại chuyện vui, dẫu sao cũng là chút “điểm sáng vui vẻ” trong những tháng ngày u ám đó...
Chúng tôi rời toà nhà “Tuyên Bố Độc Lập” để đến Quảng Trường Lịch Sử xem chiếc Chuông Tự Do (Liberty Bell) nổi tiếng. “Chuông Tự Do” với đường nứt của nó đã dính liền với nhiều biến cố lịch sử. Những câu chuyện về chuông đôi khi đã trở thành huyền thoại rất nhiều thú vị và cũng đã gây nhiều tranh cãi. Một điều chính yếu mà mọi người công dân Hoa Kỳ không ai chối bỏ và hãnh diện, đó là: “Chuông Tự Do” là một biểu tượng của nền độc lập Hoa Kỳ...


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.