Hôm nay,  

Say Cùng Tháng Tư

24/04/202516:00:00(Xem: 1981)
Nơi gac vang
Tranh minh họa: Huỳnh Lê Nhật Tấn

  

 

Dễ cũng vài mươi năm nay, cứ vào tháng Tư bất kể ngày nào, miễn là ngày đó bạn bè có thể thu xếp được là phải hẹn gặp nhau. Buổi họp mặt Tháng Tư lặng lẽ hơn so với những buổi họp mặt khác. Vẫn tay bắt mặt mừng bạn cũ lâu ngày, đâu đó nếu nghe tiếng cười, có chăng là gượng gạo.

 

Trong bữa cơm chiều hôm đó cùng nhóm bạn thân, khoảng dăm cặp vợ chồng, trong số đó có một anh thuộc Quân chủng Không Quân Việt Nam Cộng Hòa. Anh Không Quân nhắc về một ngày tháng Tư 1975 khi anh đang điều khiển chiếc trực thăng trên vùng trời miền Trung, nghe tin vị Tổng Thống cuối cùng của miền Nam đầu hàng, anh bèn bay ra biển Đông tìm đường thoát thân.

 

Trong nhóm bạn bè có người hỏi:

 

“Lúc đó vợ con anh ở đâu?”

 

“Tôi chưa có người yêu nói chi đến vợ.”

 

 “Rồi anh cùng trực thăng bay đi đâu?” 

 

“Tôi bay ra biển, trực thăng báo hiệu hết xăng. May quá tôi gặp một con tàu, tôi báo tín hiệu xin đáp xuống và họ đồng ý. Khi trực thăng của tôi vừa đáp xuống, viên chỉ huy tàu ra lệnh cho các thủy thủ đem sơn xịt trắng hết chiếc trực thăng của tôi. Tôi bậm môi ứa nước mắt vì biết rằng thế là mất tất cả.”

 

“Anh có nghĩ về gia đình của mình lúc đó?”

 

“Tía Má và anh em tôi ở bên bờ kênh Cái Sắn, tỉnh Cà Mau. Tôi biết gia đình mình ở gần bà con ruột thịt nên tôi an tâm. Nhưng về phần gia đình của tôi thì trái lại, họ lo lắng chờ mong tin tôi sau nhiều năm bặt tin.”

 

Anh kể tiếp:

 

“Tía Má tôi tìm đến một ông thầy bói hàng xóm xem quẻ hy vọng tôi vẫn còn sống sót đâu đó mà trở về. Nhưng hy vọng đã tan vào mây mờ và khói nhang che phủ căn nhà của Tía Má vì ông thầy bói phán một câu chắc nịch: “Chết rồi!” Má tôi khóc nhiều nhất sau khi xem bói về. Kể từ đó, Tía Má tôi cho phóng to tấm hình chân dung của tôi để đặt lên bàn thờ, chọn ngày giỗ của tôi là ngày ba mươi tháng Tư hàng năm.”

 

“Nhưng rồi câu chuyện đến lúc nào mới có hồi kết?”

 

“Sau 12 năm, một khoảng thời gian đủ dài, chú Hai, thầy giáo làng và là hàng xóm kế bên nhà Tía Má tôi, từng có con trai theo anh em bạn vượt biển tìm tự do và bị mất tích, là người biết tôi còn sống. Ngày nào chú Hai cũng đạp xe ra bưu điện xã để lục lọi thùng rác bưu điện với mong mỏi biết đâu một ngày nào đó nhận được thư từ con trai của chú để biết rằng nó còn sống. (Bưu điện xã thực chất chỉ là cái chòi lá bỏ hoang của bà Tám. Cán bộ không ưa những nhà dân có liên hệ đến chế độ cũ nên các thư gửi về từ nước ngoài thường bị ngấm ngầm xé bỏ). Một hôm, tình cờ chú Hai lục thùng rác thấy một cái phong bì lớn màu hồng chưa bị xé rách. Tên người nhận là Tía Má tôi và tôi là người gửi cái thiệp đó. Nhìn tên tôi là chú Hai nhớ ngay ra đứa nhỏ hằng ngày được chú Hai chở quá giang trên chiếc xe đạp để đến trường.”

 

“Nhưng có gì trong thư đó?”

 

“Từ từ để tôi kể đầu đuôi. Chú Hai đạp chiếc xe cọc cạch về xóm, mừng vui hét to cho cả làng rằng tôi vẫn còn sống. Kéo dài sự háo hức của mọi người, chú Hai còn kể dài giòng: “Tui nhìn vô thùng rác thấy có một phong bì lớn màu hồng đẹp lắm, may mắn phong bì này còn nguyên không bị xé. Nhìn rõ ràng địa chỉ nhà hàng xóm ngay cạnh nhà của tui, tên người gửi là tên của thằng học trò của tui xa xưa nè. Ngày xưa Tía Má nó không cho nó đi học, lý do là Tía Má nó nói nhà cửa ruộng lúa của họ mênh mông ngút ngàn…ăn và sống cho đến đời con cháu của họ cũng chưa hết nên muốn thằng nhỏ ở nhà giúp làm ruộng rẫy. Tui thấy mặt mũi nó sáng sủa nên tình nguyện chở nó đi học mỗi ngày.” Chú Hai kể dứt lời thì chiếc phong bì được mở ra, trong đó có một thiệp cưới màu hồng báo tin tôi lập gia đình. Cả làng chuyền tay nhau xem thiệp và cười vui chúc mừng.”

 

Kể đến đây giọng anh bạn hơi nghèn nghẹn:

 

“Nhớ ngày còn nhỏ tôi được ngồi trên chiếc xe đạp của chú Hai. Cũng nhờ chú khích lệ việc học nên tôi còn ra đến tỉnh học thi Tú Tài và sau đó được tuyển vào Không Lực Việt Nam Cộng Hoà. Tôi biết ơn Chú Hai vì nhờ ông mà tôi được đi học để mở mang kiến thức mà cũng do ông nên gia đình biết tôi còn sống.”

 

“Vậy chớ anh có giận ông thầy bói không?”

 

“Cớ gì mà giận? Ngay lúc biết được tin tôi còn sống, có người la lớn: “Qua nhà ông thầy bói quở ổng bói sai rồi.” Rồi cả xóm ổn ào, người thì đòi ông thầy bói trả lại tiền xem bói, người thì nói thôi bỏ qua vì không ai chết là vui rồi. Thế rồi ngày hôm sau ông thầy bói qua nhà Tía Má tôi nói lời xin lỗi và giúp hạ tấm hình của tôi trên bàn thờ xuống, hứa sẽ giải nghệ không làm nghề thầy bói nữa. Nghe đâu sau này ổng bỏ xứ đi chỗ khác. Tôi tiếc là không gặp được ổng.”

 

“Trời, tiếc chi nữa anh?”

 

Anh bạn cười ha hả:

 

“Để bắt tay ông thầy bói rồi nói với ổng một câu là: “Nhờ Thầy mà cứ đến “Ngày Tui Chết” thì cả xóm của Tía Má tui được ăn Gà Khoả Thân”.

 

Bạn hữu sum họp cùng nhau để sống lại những kỷ niệm, chuyện cũ ôn đi ôn lại nói hoài mà vẫn tưởng là chuyện chưa kể trong khi chuyện mới thì hiếm được nghe. Năm nay, mọi người tề tựu tại nhà Anh. Chị thì thầm bên tai nhắc Anh uống chừng mực, Anh càng lầm lì rót thêm. Rượu vào mềm môi, tê đầu lưỡi, khiến Anh đang cảm giác mình ở nơi xa xăm lắm, giọng nói trở nên chơi vơi. Câu chuyện về cái bàn thờ của anh bạn Không Quân khiến Anh chạnh lòng nhìn lên bàn thờ có hình cha mẹ mình. Quên hẳn mình đang ngồi bên đám bạn hữu, Anh khề khà:

 

“Ba Má à, giờ con gần tám chục tuổi rồi…Con nhớ …ngày mới lớn …con mê chơi quá, lười học theo đám bạn lêu lổng phá làng, phá xóm … “cúp cua” không đi học, đàn đúm bạn bè vào rạp hát xem phim, không chịu vào trường học …Má gửi con lên Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng ở cùng gia đình anh chị Ba. Anh Ba là con rể của Má đó, Má nhớ không?”

 

Trên bàn thờ, tấm hình Má vẫn cười tươi nhìn thằng con “bất trị” ngày trước. Chuếnh choáng, Anh xưng Tui với Má:

 

“Má nhớ không, lúc đó anh Ba con rể của Má làm chức lớn gì đó trong tỉnh. Ảnh có một cái xe máy loại giành riêng cho cấp Tỉnh …Tui bèn “mượn tạm” xe đó chạy khắp nơi … Hôm sau anh Ba bị cấp trên khiển trách …Rồi Má lại phải xe đò lặn lội lên Bảo Lộc, Lâm Đồng rước tui về, vì Anh Chị Ba sợ trách nhiệm do Má giao không hoàn thành, vì tui trốn học hoài…Nghĩ lại tui thương Má quá, Má ơi! May quá, khi về Sài Gòn, tui thi đậu Đệ Thất (là lớp Sáu bây giờ), Má mừng quá chừng, tui lo học hành trong ngôi trường lớn nơi mà kỷ luật đâu vào đó. Rồi tui thi đậu Tú Tài khi chiến tranh tràn lan khắp nước. Tui khoái màu áo rằn ri nên xung phong đi lính luôn.”

 

Bạn bè yên lặng rót rượu mời nhau. Họ tôn trọng những phút giây Anh thì thầm độc thoại: “Ba Má à, Tháng Tư 1975 “bên thắng cuộc” không cùng chiến tuyến chiến tuyến với con đã buộc con cũng như các quân nhân của nhiều binh chủng khác vào nơi rừng thiêng nước độc để “tập trung cải tạo”. Con tơi tả xác thân. Sau tám năm tù đày, trong trại tù bắt đầu xôn xao nghe tin một số người “được thả”, được “tha về” nhưng tên con thì không được gọi. Con biết một số bạn tù được tập trung nơi cái chòi riêng, được ăn uống đầy đủ hơn một chút, được sự chuẩn bị tinh thần, thư từ nhắn gia đình đến đón về…Riêng con, vẫn hàng ngày vác cái cuốc xẻng, vẫn đói, vẫn xác xơ lao động. Rồi cái ngày lạ lùng đó đến khiến con nhớ mãi. Hôm ấy con chuẩn bị vào rừng sâu lao khổ, một tên cán bộ coi tù đến trước mặt:

 

“ Lên văn phòng gặp tôi.”

 

Con tự hỏi chúng lại tìm lý do nào đó để hành hạ mình nữa đây, chắc chúng lại nhốt con trong CONEX thôi.

 

“Ngồi xuống đi!”

 

Tên cán bộ hất hàm. Con ngồi bình tĩnh chờ việc gì sẽ xảy ra với mình. Hắn nhìn con chằm chằm vài giây  rồi nói cộc cằn:

 

“Được thả, lý do sơ sót tên. Anh về lán gom đồ đạc rồi ra đây gặp lại.”

 

Có phần ngỡ ngàng, con không tin vào điều vừa nghe. Quay bước về lán trại gần mà tưởng như xa tít tắp, con gom mớ vật dụng cá nhân ít ỏi của mình đem phân phát lại cho vài bạn tù thân thiết còn lại.

 

Miệng khô khát, Anh nhếch cười gằn giọng:

 

“Ba Má có biết không, gia tài duy nhất của con là Giấy Được Tha và tờ tiền một trăm đồng thời đó.”

 

Trí nhớ Anh dường như chứa cả một kho ký ức nhưng sao kể lại thì khó khăn quá. Chẳng phải vì Anh say. Chẳng phải vì Anh líu lưỡi do men cay. Có lẽ tâm tư về những năm tháng ấy trĩu nặng. Dù gì Anh cũng phải nói ra cho vơi buồn dẫu người nghe ở tận nghìn trùng hay cận kề. Anh chỉ biết mình cần nói cho hả, hay nói theo kiểu người bạn đời của Anh, nói cho tiêu sầu.

 

“Một mình con lếch thếch ra trại, cảm giác khó tả Ba Má ơi! Áo quần tơi tả, giữa ngã ba đường chờ xe đò lâu quá. Con đi bộ một đoạn đường dài lắm. May mắn, con gặp một bà cụ bán cơm tấm gần ga xe lửa. Bà thoáng nhìn con là nói ngay: “ Anh là người tù được thả, phải không? Ngồi đây ăn một dĩa cơm tấm thịt trứng. Nhớ là ăn chầm chậm. Bà không lấy tiền, con cất tiền mua vé, tiền ăn dọc đường nhen con.” Đến lúc con ăn xong thì bà gọi thằng cháu chở con ra trạm xe lửa bằng chiếc xe đạp cũ kỹ rồi dặn dò: “Con không thể mua vé được đâu, vé chợ đen mắc hơn số tiền trại tù đưa con thì còn tiền đâu nữa trong khi đường về nhà Sài Gòn còn xa lắm nên cứ nhảy đại lên toa gần cuối nơi có nhà bếp rồi từ từ năn nỉ họ nếu bị soát vé.” Đúng như bà cụ bán cơm tấm dự liệu, con bị người soát vé kiểm tra và đương nhiên con không có vé tàu. Nhưng có lẽ người soát vé nhìn con gầy quá nên không nỡ đuổi xuống tàu. Ông ta cho con đứng giữa những thanh sắt nối tiếp các toa tàu. Cũng may gió không hất con rơi rụng vì con quá ốm. Cám ơn gió. Cám ơn Trời.”

 

Một vài tiếng thở dài đâu đó nhưng vẫn không ai lên tiếng. Bất chợt Anh bật khóc rưng rức:

 

“Ba Má có biết không, con tiếc quá, sao lúc đó không cho thằng bé tiền, rồi sao không hỏi địa chỉ và tên tuổi để sau này ghé thăm và đền ơn hai bà cháu? Bao nhiêu câu hỏi dồn dập bây giờ thì cũng đã muộn rồi. Tình người để lại ấm trái tim con. Hôm nay con nhắc, con nhớ ơn bà bán cơm tấm và cháu trai bé nhỏ của bà. Con đã nợ ân tình của hai bà cháu mà kiếp này chưa trả được. Rồi con tự hỏi lúc đó sao thằng bé có thể chở được một người tù trên chiếc xe đạp ọp ẹp qua những đoạn đường khúc khuỷu? À, con nhớ ra rồi, thì ra số cân nặng của người tù lúc đó nhẹ hơn số cân của thằng bé.”

 

Tháng Tư chuếnh choáng. Say chẳng phải vì rượu dẫu chỉ nhấp môi hoặc thậm chí trong đám bạn có kẻ chẳng uống giọt nào. Nhưng họ vẫn say như thường. Những hồi ức tháng Tư lần lượt xuất hiện như một chất men nhưng không thể làm người ta quên mà chỉ là giây phút hiếm hoi nhắc nhớ để rồi quên. Quên tạm thời nỗi niềm chất chứa mà không làm sao quên hẳn. Phải say cùng tháng Tư thôi.

Châu Hà

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bây giờ trời đã tối, nhiều người đi ngủ sớm. Bọn trẻ học bài dưới bóng ngọn đèn dầu ở ngoại ô, ngọn đèn đường gần bờ sông. Trước hàng rào kẽm gai, một người lính mang súng đi đi lại lại, một đôi tình nhân đi chơi về muộn. Ngọn đèn hỏa châu sáng bừng góc trời một lát rồi tắt. Người yêu quê hương đã đi ra khỏi mảnh đất của những hận thù dai dẳng mà vẫn muốn trở về. Người nông dân muốn cày lại thửa ruộng của mình. Người thợ sửa đồng hồ muốn ngồi lại cái ghế vải nhỏ thấp của mình sau tủ kiếng bày đồng hồ cũ và mới. Lò bánh mì chiếu sáng nhấp nhô bóng những đứa trẻ bán bánh mì đứng trước cửa sổ với bao tải lớn đựng bánh nóng mới ra lò. Con chim về ngủ muộn biến mất trong bụi cây chỗ anh đứng.
Em nằm im lặng nghe đêm thở | Tháng Tư mở đôi mắt trong đêm | Anh ạ, em nghe Tháng Tư khóc | Tháng Tư nhỏ những giọt lệ đen.(tmt)
Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi.
Biển đêm như vô thức một màu đen mênh mông, nhưng biển chứa toàn bộ lịch sử con người từ lúc còn là tế bào phôi sống cho đến khi biến thành DNA, rồi từ thú vật tiến lên con người. Lịch sử đó đầy ngập dữ liệu nhưng chôn sâu dưới đáy nước. Hồi tưởng chỉ là những con sóng nổi dập dìu, cho dù sóng lớn dữ dằn trong bão tố vẫn không mang được hết đáy nước lên trên mặt. Vì vậy, biển lúc nào cũng bí mật. Vô thức cũng bí mật. Càng gây thêm khó khăn để chứng minh sự thật vì vô thức có khả năng biến đổi dữ liệu hồi tưởng. Chỉ những người thiếu bản lãnh mới tin vào trí nhớ của mình và của người khác. Nhưng toàn bộ nhân loại sống và tạo ra ý nghĩa hầu hết dựa vào bộ nhớ. Một số ít người hiểu rõ điều này, nhưng không làm gì khác hơn, vì hồi tưởng tự động và tự nhiên xuất hiện dù không đầy đủ, kể cả, khi con người kêu gọi ký ức đến, nó cũng đến trên xe lăn, hoặc chống nạn, hoặc bò lết như kẻ tàn tật.
Chiến tranh là một nỗi đau dằn vặt của nhân loại vì không ai muốn nó xảy ra, nhưng chiến tranh vẫn cứ xảy đến như một điều kiện cần thiết biện minh cho sự tồn tại của thế giới con người. Ngày Ba mươi tháng 4 năm 1975 là một cột mốc đánh dấu một biến cố chính trị trong lịch sử chính trị thế giới, ngày cuộc chiến tranh Việt Nam (1954-1975) chấm dứt.
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm.
Hai tên đeo băng đỏ đưa tôi đến một căn nhà nằm trên đường Tôn Thất Thuyết. Nay mới biết là cơ sở kinh tài của Việt Cộng. Vào bên trong, tôi thấy có một số người bị bắt trước ngồi trên băng ghế đặt ở góc một phòng lớn rộng rãi. Họ ngước mắt nhìn tôi có vẻ ái ngại. Tôi biết những người ngồi đó là thành phần đặc biệt nằm trong danh sách tìm bắt của chúng. Nhìn họ, tôi thấy mấy người quen quen. Hình như họ là viên chức Chính Phủ trong tỉnh. Tôi được đưa đến ngồi cạnh họ. Tất cả đều im lặng, không ai nói với ai lời nào ngay cả khi bất chợt nhìn thấy tôi. Có lẽ im lặng để che đậy cái lý lịch của mình, làm như không quen biết nhau, nếu có khai láo cũng không liên lụy đến người khác.
Trong cuộc đời, ắt hẳn bạn đã nhiều lần bước trên lối mòn giữa một cánh đồng cỏ hay trong một khu rừng? Thoạt đầu, lối mòn ấy cũng đầy hoa hoang cỏ dại như chung quanh, nhưng những bước chân người dẫm lên qua ngày tháng đã tạo thành một con đường bằng phẳng. Ký ức chúng ta cũng tương tự như lối mòn ấy. Những trải nghiệm với cảm xúc mạnh mẽ trong quá khứ được nhớ đi nhớ lại như những bước chân đi trên lối mòn góp phần hình thành ký ức, và cả con người chúng ta. Người Mỹ gọi loại ký ức này là “core memory” mà ta có thể dịch ra Việt ngữ là ký ức cốt lõi. Với tôi, ký ức cốt lõi ấy là những gì xẩy ra cho tôi và gia đình trong quãng thời gian kể từ khi thị xã Ban Mê Thuột thất thủ ngày 12 tháng Ba năm 1975, kéo theo sự sụp đổ của miền Nam Việt Nam chưa đến bẩy tuần sau đó. Tôi vẫn nhớ, và nhớ rất rõ.
Vốn là một quân nhân, sau khi triệt thoái từ miền Trung về Saigon, tôi được bổ xung cho một đơn vị pháo binh đang hành quân ở vùng Củ Chi, Tỉnh Tây Ninh, yểm trợ sư đoàn 25 Bộ BinhB. Khoảng ba tuần trước khi mất nước tôi bị thương ở chân. Nằm trong quân y viện Tây Ninh vài ngày, bác sĩ cho về nhà dưỡng thương một tháng ở Saigon.
Ngày xưa, thông thường, chồng của cô giáo được gọi là thầy, cũng như vợ của thầy giáo được gọi là cô. Cho dù người chồng hoặc vợ không làm việc trong ngành giáo dục. Nhưng trường hợp cô giáo tôi, cô Đỗ Thị Nghiên, trường Nữ Tiểu Học Quảng Ngãi thì khác. Chồng của cô, thầy Nguyễn Cao Can, là giáo sư dạy trường Nữ Trung Học Quảng Ngãi. Cô Đỗ Thị Nghiên dạy lớp Bốn, trường Nữ Tiểu Học. Trong mắt nhìn của tôi, của con bé mười tuổi thuở ấy, cô Nghiên là một cô giáo rất đặc biệt. Cô nói giọng bắc, giọng nói trầm bổng, du dương. Tóc cô ngắn, ôm tròn khuôn mặt. Da cô trắng nõn nà. Có lần ngoài giờ học, trên đường phố của thị xã Quảng Ngãi, tôi thấy hai vợ chồng thầy Can, cô Nghiên đèo nhau trên xe gắn máy. Cô mặc jupe, mang kính mát, ngồi một bên, tréo chân, khép nép dựa vai thầy. Ấn tượng để lại trong trí của con bé tiểu học là hình ảnh của đôi vợ chồng sang trọng, thanh lịch, tân thời, cùng mang thiên chức cao cả: dạy dỗ lũ trẻ con nên người.
Tháng Tư này tròn 50 năm biến cố tang thương của miền Nam Việt Nam, những người Việt hải ngoại, đời họ và thế hệ con cháu đã trưởng thành và thành công trên xứ người về mọi mặt học vấn cũng như công ăn việc làm. Họ đang hưởng đời sống ấm no tự do hạnh phúc đúng nghĩa không cần ai phải tuyên truyền nhồi sọ. Nhưng trong lòng họ vẫn còn bao nhiêu kỷ niệm thân thương nơi chốn quê nhà.
Có một buổi trưa, hai đứa đang thưởng thức bò bía, đậu đỏ bánh lọt ở chùa Xá Lợi, góc Bà Huyện Thanh Quan và Ngô Thời Nhiệm (?), thì gặp một "cái bang". Đầu đội khăn rằn, đeo mắt kiếng cận nặng, cổ quấn vài ba chiếc khăn đủ màu và ông còn dẫn theo hai con chó, vừa đi vừa múa tay múa chân như người say rượu. Chừng như ông không cần thấy ai, chung quanh chỉ có ông và hai con chó. Người đàn ông "cái bang" đó là nhà thơ, nhà văn, nhà biên khảo nổi tiếng của Việt Nam: Bùi Giáng. Hai con chó vừa đi vừa sủa vang, khiến một số nữ sinh Gia Long đang đứng quanh xe bò bía, vội vã chạy né qua bên kia đường. T


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.