Hôm nay,  

Cái Bẫy Chó

25/04/202500:00:00(Xem: 2715)

cai bay cho
Hình minh họa được vẽ bởi AI
                                                           
Năm mươi năm nhìn lại, sau ngày 30 tháng 04, 1975, cái dấu mốc lịch sử đau thương của đất nước Việt Nam, nói chung, và người dân miền Nam nói riêng. Sự thật lịch sử về ngày này đã được phơi bày rõ ràng trên mọi phương tiện truyền thông, tin tức, và trong thế giới sử. Ai cũng đã rõ, phe thắng trận, sai, phe thua trận, đúng. Điều này không cần bàn cãi nữa; cho dù kẻ chiến thắng cố tình viết lại lịch sử Việt Nam theo ý mình khi sức mạnh của họ nằm trên nòng súng. Phe thua cuộc lại là phe thắng được nhân tâm. Lịch sử cũng đã chứng minh rõ ràng chủ nghĩa cộng sản đã sụp đổ ngay tại cái nôi cách mạng tháng 10 tại quê hương sản sinh ra nó, nước Nga Sô-Viết.

Nhà giảng thuyết người Mỹ gốc Đức William J.H. Boetcker (1) (1873-1962) có viết trong bài The Ten Cannots, 10 Điều Không Thể, rất nổi tiếng của ông, có 2 câu vẫn còn rất đúng cho đến ngày nay: You can not help the poor by destroying the rich. Bạn không thể giúp người nghèo bằng cách tiêu diệt người giàu. You cannot help men permanently by doing for them what they can and should do for themselves. Bạn không thể mãi mãi giúp người khác điều mà chính họ có thể và phải làm cho chính bản thân họ.

Người cộng sản với khẩu hiệu “cướp của người giàu đem cho người nghèo” là hoàn toàn sai. Cùng đồng nghĩa với câu “cướp chính quyền về tay nhân dân” cũng hoàn toàn trái với nhân sinh quan của loài người trong một xã hội văn minh. Họ chỉ biết tiêu diệt, giết chóc, tàn phá để đạt được mục đích, cho dù họ biết là sai; và khi phá hoại xong, họ lại không biết phải xây dựng lại như thế nào. Đây là sự bất hạnh lớn nhất của dân tộc, đưa cả nước trở về thời Đồ Đá, thua kém các dân tộc khác trong vùng.

Nếu ai hỏi tôi nghĩ gì về chủ nghĩa Cộng sản tại Việt Nam, tôi sẽ không ngần ngại trả lời chỉ bằng 1 chữ: ĐÓI. Vâng, ngoài sự bất hạnh của cả nước, cái nghèo-đói lan rộng trên đất nước từ Nam ra Bắc, nạn đói kinh hoàng mà người cộng sản mang lại cho người dân Việt Nam. Người dân ai cũng đói đến vàng mắt. Những mái nhà xiêu vẹo dọc theo con đường đất tung bụi mù nơi miền thôn dã; những con hẻm vắng lặng ở thành phố, nơi người già và trẻ con gầy gò ngồi thẫn thờ. Trộm cắp xảy ra khắp nơi. Ý thức không cao hơn cái bao tử.

Người cộng sản vốn ngu dốt, cộng thêm chính sách của họ là điên cuồng, đập đổ tất cả những điều tốt đẹp để xây dựng lại từ đầu, dù họ biết là sai; họ phải tiêu diệt và phá hủy tất cả những gì của chế độ trước để rồi không biết phải xây dựng cái gì. Cái đói khát không chỉ hiện diện trên từng khuôn mặt hốc hác, mà còn in sâu vào từng bước chân nặng nề của những người cha, người mẹ trên con đường kiếm sống, vất vả, lam lũ nuôi đàn con. Cái nghèo đói còn để lại những dấu ấn không thể phai mờ trong ký ức mọi người, cho đến nhiều năm sau này.

Một ngôi làng nghèo nàn ở ven đô Sài Gòn, 3 năm sau ngày “giải phóng”, vợ chồng ông bà Gia và ba đứa con, hai trai một gái, sống trong một mái nhà tranh vách đất giống như hầu hết mọi người ở quê thời bấy giờ. Gia đình ông bà từ thành phố đi “kinh tế mới” về vùng này đã hai năm nay, nhìn họ không có vẻ lam lũ và đen đúa như những người dân quê khác, nhưng họ vẫn đói, vẫn phải ăn để sống. Ông bà đã bán sạch sẽ những gì họ có thể bán để sống sót trong thời buổi ngăn sông cấm chợ này.

Cả tháng nay họ phải ăn khoai củ thay cơm, gạo chỉ còn vài lon sữa bò, phải để dành nấu cháo cầm hơi. Hôm nay, trời oi bức, thỉnh thoảng một cơn gió thổi tung bụi đất trước sân, tiếng ve kêu inh ỏi, chói tai trong bóng cây hàng rào trước cổng nhà, muốn ngủ cho quên đói cũng không xong. Cái nóng như đồng lõa với cái đói, khiến mọi người không muốn bước ra khỏi nhà. Thằng Đạo, con trai lớn của ông Gia, đang nằm trên cái chõng tre, ngó trân trân lên trần nhà; ông Gia đang nằm đong đưa trên cái võng đan bằng cỏ Lác, ngó mông lung ra ngoài đường. Cả hai như đang chăm chú nhìn mà không thấy gì.
Một con chó vàng gầy gò, chỉ còn da bọc xương, hai hàng vú của nó xẹp lép, không còn chút sữa nào cho đàn con đang đói khát, bộ lông xơ xác bám bụi, đang đi vào cổng nhà ông. Tới trước hiên nhà, nó ngừng lại, đánh hơi mong tìm kiếm một chút thức ăn thừa. Cặp mắt ông Gia chợt sáng lên vui mừng. Ông nhẹ nhàng ngồi dậy, khẽ kêu con trai:

- Mày vào trong bếp, lấy cho tao củ khoai mì và sợi dây thừng.

Thằng Đạo nhìn ba nó, đôi mắt ông đang chăm chăm nhìn con chó vàng ngoài hiên, nó hiểu ngay sự việc. Nhanh như cắt, nó cũng nhẹ nhàng đi vào bên trong và trở ra với một sợi dây nylon và một mẩu khoai mì trên tay. Nó bẻ một miếng nhỏ khoai mì, ném về phía con chó, vừa kêu:

- Kiki, tới đây, tao cho mày ăn.

Con chó vẫn đứng im, đôi tai vễnh lên, mắt nhìn hai cha con với vẻ đề phòng, không tỏ ra thèm muốn. Hai cha con ông Gia vừa dụ dỗ vừa đưa miếng khoai mì còn sót lại gần con vật hơn. Nó lùi lại một bước, mắt vẫn nhìn miếng khoai vẻ thèm thuồng. Ông Gia ném thêm một mẩu khoai nữa, rồi hai cha con dừng lại, im lặng quan sát. Một hồi lâu, không cưỡng lại cơn đói, con chó tiến nhanh đến, đớp miếng khoai và chạy ra xa, dừng lại và nhai ngấu nghiến. Ăn xong, nó trở lại gặm miếng khoai còn lại và lại chạy ra xa để thưởng thức tiếp. Ăn xong hai miếng khoai mì, con chó vẫn còn thòm thèm, nhìn hai cha con ông Gia như muốn xin thêm.

Ông Gia ghé tai đứa con trai thì thầm thật nhanh rồi ông đích thân bước vào trong bếp. Lát sau ông đem ra một cái nồi nhôm cũ, trong đó có ít cháo lỏng dưới đáy nồi. Ông thắt một cái nút thòng lọng và quấn sợi dây nylon quanh cột nhà trong khi Đạo vẫn cố nhử con chó vàng vào trong nhà. Quen mùi, không cưỡng lại sự thèm muốn, con chó từ từ theo vô, bạo dạn hơn vì nó cảm thấy hai người này không có vẻ gì muốn hại nó. Ông Gia đặt cái nút thòng lọng xuống nền nhà, ông nắm chặt đầu dây kia và vòng nó qua cái đinh lớn đóng vào cột nhà để giăng võng.

Hai cha con kiên nhẫn, từng chút một, từng chút một, họ ném hết củ khoai mì, ông Gia đưa nồi cháo đến gần mũi con chó. Nó đánh hơi mạnh hơn và bạo dạn đến gần đưa mũi ngửi. Ông Gia chậm rãi kéo cái nồi để gần cột nhà và nhẹ nhàng đặt nút giây thòng lọng lên miệng nồi. Hai cha con ngồi xa ra một chút, nín thở theo dõi từng cử động của con chó trong khi tay kia ông vẫn nắm chặt một đầu dây. Con chó không cưỡng lại được mùi thơm, từ từ đến gần nút dây. Nó nhìn hai cha con ông Gia một lần nữa để chắc rằng họ không làm gì nó.

Con chó lè lưỡi liếm nhanh vào đáy nồi cháo và lùi lại một bước, tiếp tục dò xét cha con ông chủ nhà. Không thấy gì khả nghi, con chó lần này bạo dạn, tiến lại gần, xục mạnh vào nồi cháo và ăn thật nhanh. Ông Gia giật mạnh, sợi dây thắt vào cổ con chó khiến nó hoảng hốt chạy ra phía cửa. Càng chạy, sợi dây thắt càng chặt, con chó rên lên ư ử đau đớn vì bị kéo lê về phía cột nhà. Hai cha con thở hồng hộc, ra sức kéo mạnh sợi dây trượt trên cái đinh lớn, kéo cổ con chó lên cao hơn. Con chó dãy dụa càng mạnh thì sợi dây lại càng thắt chặt hơn. Con chó yếu dần, hai chân sau dãy dụa, móng chân cào mạnh trên sàn đất, cả thân mình nó run lên bần bật, miệng sùi bọt mép, nước mắt nó chảy ra, cặp mắt lồi ra ngoài như van xin.

Tiếng con chó rít lên yếu dần. Hai cha con ông Gia vẫn ghì chặt sợi dây cho đến khi con chó oằn mình lên lần cuối cùng, bốn chân nó cứng đơ, rồi mới chịu nằm im. Chờ thêm vài phút nữa, ông Gia đá vào mình con chó, biết chắc nó đã chết, họ thả lỏng sợi dây và kéo con chó ra sau bếp.

Phòng bên kia của gian nhà, sau bức liếp tre, tôi đang lên con sốt rét rừng, nằm đắp cái mền rách cũ kỹ, nhàu nát mà rét run từng cơn, tôi chứng kiến tất cả sự việc từ đầu đến cuối, qua khe hở mà không hề lên tiếng. Tôi mướn căn phòng trong nhà ông bà Gia để lấy chỗ đi về trong lúc đi phá rừng ở Bàu Cạn. Miệng đắng nghét, người hầm hập nóng, tôi với tay lấy ly nước đầu giường uống một hơi, rồi nằm xuống tiếp tục với cơn sốt còn váng vất khiến tôi không thể đứng dậy được.

Chiều tối hôm đó, sau khi khóa cổng và đóng cửa nhà cẩn thận, gia đình ông bà Gia ngồi bên mâm cơm có thịt, dưới ngọn đèn dầu leo lét, mùi thức ăn bốc lên thơm phức khiến tôi chảy nước miếng. Tôi được mời ăn bữa cỗ thịnh soạn như một trao đổi ngầm là sự im lặng đồng lõa; nhưng tôi ăn không nổi, thịt con chó dai như cao su và toàn là xương, tôi lại đang bệnh nặng nên chẳng còn biết ngon là gì.

Ông bà Gia cố ép tôi húp chén cháo cho khỏe, để mau giải cơn sốt rét rừng. Tôi cố đưa chén lên miệng, húp một miếng nhỏ mà cổ họng đắng nghét. Tôi cám ơn và xin phép trở lại cái chõng tre của mình. Hình ảnh con chó dãy dũa đau đớn hồi trưa vẫn còn ám ảnh, khiến tôi không thể nuốt nổi miếng nào dù rằng đã lâu tôi không có miếng thịt nào trong một thời gian rất dài.

Sáng hôm sau, nhà hàng xóm kế bên, bà Huấn đứng bên kia bờ rào, chửi đổng qua bên đây:

- Giời ơi là giời! Tiên sư chúng mày ăn cắp chó nhà bà, con chó đang nuôi con nó mà chúng mày nỡ lòng nào đi giết nó. Giời ơi là giời!

Bà tốc cả áo sống lên, thậm chí đưa cả “một bộ phận không nhỏ của nguời dân” ra mà chửi, mệt vô nghỉ, rồi ra chửi tiếp. Tôi nằm đắp mền, bịt tai lại, vẫn nghe rõ mồn một. Bên này, ông Gia hối thúc gia đình phi tang các chứng tích, đem dấu tất cả đồ ăn còn lại, chôn sâu tất cả lông và xương chó dưới bụi chuối già, đồng thời ông cho mở radio hết cỡ bài “Tiếng chày trên sóc Bombo” theo kiểu “Tiếng hát át tiếng bom” một thời được nhai đi nhai lại, điếc cả tai, ở cái loa đầu xóm.

Ngày 13 tháng 02, 2025, ông tổng bí thư, người đứng đầu đảng cộng sản Việt Nam, tại phiên họp bất thường của quốc hội lần thứ 9, khi so sánh Singapore với miền Nam Việt Nam thời kỳ trước 1975, đã phát biểu như sau: “Nhìn sang Singapore, xưa họ nói được sang Việt Nam chữa bệnh là điều mơ ước, 50 năm nhìn lại, giờ mình lại mơ được sang SP để khám bệnh”.

Có vậy mới biết ngày xưa VNCH đã phát triển vượt bậc so với miền Bắc Việt Nam và là nơi mơ ước của các nước trong vùng Đông Nam Á. Đức Đạt Lai Lạt Ma, vị lãnh tụ tinh thần của Phật Giáo Tây Tạng, sau nhiều năm lưu vong, đã đúc kết về chủ nghĩa cộng sản như sau: "Cộng sản là loài cỏ dại, mọc lan trên hoang tàn của chiến tranh, là loài trùng độc sinh ra từ rác rưởi của cuộc đời. Cộng sản sinh ra từ đói nghèo và ngu dốt, lớn lên bằng dối trá và bạo lực và sẽ chết đi trong sự khinh bỉ và nguyền rủa của nhân loại."

Ngày nay, thực tế lịch sử cho thấy những thất bại nặng nề của chủ nghĩa cộng sản để lại cho loài người.  Mong một ngày không xa, Việt Nam sẽ từ bỏ cái chế độ duy trì quyền lực bằng bạo lực, không còn kiểm soát thông tin và quyền tự do trong nước, để dân Việt có thể sánh vai với các nước Đông Nam Á, mà không còn phải qua các nước láng giềng đi làm thuê.
 
NGUYỄN VĂN TỚI. Tháng 04/2025. 50 năm nhìn lại.

PREFERENCES:
 
                                            

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Thật khó mà nói về mình khi bước vào tuổi 90-cái tuổi lớn nhưng không thừa, đôi khi lại thiếu- Ở tuổi 90, sức khỏe xuống cấp, lôi theo sự trì trệ thoái hóa của não bộ, trở nên bảo thủ. Đôi khi lại phấn chấn, một chút quá khích, muốn bước thêm những bước dài nữa thì bị hụt hơi. Ngày xưa hăm hở viết, cứ tưởng mình đắc thủ tư tưởng cổ kim nhiều lắm. Bây giờ ở tuổi 90 lại thích đọc, như tim về nơi trú ẩn, tự an trí mình.
Câu chuyện ngày nay kể về một chuyện ngày xưa, một ngày của thuở hồng hoang loài người; hằng triệu năm trước, khi một mảnh đất trên địa cầu, sau cơn địa chấn, tách ra và trôi dạt về phương Nam, ngày càng xa thẵm và nó trôi đến phía cực Nam của trái đất, dừng lại một nơi chốn tận cùng, rồi một biên giới được dựng lên bởi bức tường Băng Tuyết vĩnh viễn. Trên mảnh đất xa xôi, ngàn năm cô đơn ấy, một loài chim Cánh Cụt ríu rít sống bên nhau, yêu thương che chở nhau cho đến chết vì nhau.
Lúc tôi đậu thanh lọc, được chuyển từ trại “cấm” sang trại tự do, tinh thần vui vẻ, tôi không có ý định tiếp tục công việc ở post office mà muốn thử công việc mới, làm thiện nguyện 3 jobs không hề mệt mỏi . Sáng sớm dạy lớp English Vỡ Lòng cho người lớn tuổi tại trường ESL, sau đó chạy “show” qua trường Việt Ngữ dạy Tiếng Việt cho các em nhỏ, và thời gian còn lại trong ngày làm việc là dành cho Văn Phòng Cao Ủy Định Cư.
Tôi đang đổ xăng, bỗng có người thanh niên tiến đến nên tôi cảnh giác xem anh ta muốn gì? Anh ấy không có thái độ gây hấn hay gì hết, ngược lại là nụ cười xã giao dễ mến và và hành lễ khoanh tay là điều đã hiếm thấy ở giới trẻ Việt trên nước Mỹ bây giờ.
Nhân tuần lễ kỷ niệm 49 ngày Khánh Trường rời cuộc thế gian, tờ Ngôn Ngữ số đặc biệt tháng Hai dành trọn số báo tưởng niệm người họa sĩ, nhà văn, nhà thơ, nhà báo tài hoa Khánh Trường, do nhà thơ Luân Hoán và bạn hữu nhóm Ngôn Ngữ ưu ái thực hiện. Mời đọc bài viết của Trần Yên Hòa trích nhà phê bình văn học Thụy Khuê như một nén nhang tưởng nhớ người họa sĩ/nhà văn tài hoa.
Có thể nói cuộc đời của những du học sinh thời VNCH như tôi trải qua khá nhiều truân chuyên từ dạo ấy, sau tháng Tư đen 1975, từ khi cộng sản Bắc Việt thống trị Nam Việt Nam. Khác với quyết định đi tìm Tự Do, đi tìm sự sống trên cái chết qua hình thức vượt biên vượt biển của đồng hương sau 1975, chúng tôi may mắn hơn, đơn thuần chỉ phải chọn lựa một trong hai: về Việt Nam hay ở lại nước ngoài. Nếu quyết định về VN thì phải cúi đầu phục tùng nhóm sinh viên đoàn kết và toà đại sứ Việt Cộng. Còn ngược lại nếu quyết định ở lại nước ngoài thì phải chấp nhận xa quê hương, xa gia đình, bạn bè anh em và không biết khi nào mới gặp lại!
Văn hóa phương Tây, rắn vừa là biểu tượng trong lĩnh vực y khoa vừa là nguồn cảm hứng trong hội họa, kiến trúc và văn học. Văn hóa Hy Lạp bắt nguồn từ vị thần cổ đại Hermes, sứ giả của các vị thần. Thần Esculape được coi là ông tổ của ngành y dược. Biểu tượng của Tổ Chức Y Tế Thế Giới WHO (World Health Organization) con rắn quấn quanh cây gậy Esculape cầm. Cục Quân Y VNCH có thêm đôi cánh trên thanh kiếm.
Hồi năm sáu tuổi tôi vẫn hay theo chúng bạn ra chơi trước đình làng Thanh Thủy. Nơi đó có mấy cây sanh cổ thụ rất lớn luôn tỏa bóng râm mát mẻ cả đoạn đường bến chạy qua làng. Bên kia con đường bến là hồ Vọng Nguyệt, một cái hồ trông như vuông vức, rộng chừng nửa mẫu tây, dân địa phương vẫn quen gọi là hồ làng...
Phải chi khách đến thăm vườn hồng hơn trăm giống quý đủ màu sắc của ông Chu hằng ngày là khách mua hoa thì chắc thu nhập của gia đình ông đỡ hơn. Ông nghèo, nhưng cái máu nghệ sĩ của ông lại mạnh mẽ hơn chuyện tiền bạc, lại gặp bà vợ hết mực chiều chồng, nên cứ nghe đâu có giống hồng lạ là bằng mọi cách phải có cho bằng được. Năm ba ký gạo đắp đổi hằng ngày đã khó, mà có những giống người ta đổi cả tấn lúa ông cũng lắc đầu.
Không nhớ từ bao giờ đã không còn ngồi xuống bàn trà, tay bốc miếng mứt hạt sen bỏ vô miệng, vị ngọt tươm ra không quá gắt như ăn miếng mứt bí, vị ngọt nhẹ, thanh, kích thích vị giác bởi hương sen quyện ngọt điệu đà, tới khi nhai cái hạt sen đã ấm ấm trong miệng nên không còn cứng cũng không quá mềm như khoai lang luộc. Độ dẻo của hạt sen khi đã sên mứt rất mê hoặc và cũng đâu có gì vội để nuốt đi cho mau, cứ ngậm mà nghe hương vị đất trời tinh khiết của hương sen xông lên khoang mũi làm cho người thưởng thức lâng lâng cảm giác xuân đã về. Có thể nói món gì có hạt sen góp mặt cũng ngon như món vịt tiềm có nhân bên trong là thịt bằm, nấm mèo, táo tàu, gia vị nhiều thứ, nhưng những hạt sen luôn khêu gợi những đôi đũa gắp vì hấp dẫn và ngon lạ miệng. Nhưng đã nhiều năm không ăn mứt hạt sen sao vẫn nhớ khá rõ hương vị độc đáo của hạt sen trong món ngọt ăn chơi ngày tết, hay món mặn ăn tiệc đều ngon.
Cậu Hà người Bắc di cư năm 1954, cậu di cư có một thân một mình khi còn trẻ, nên cậu cũng không có nhiều phương tiện được học hành nhiều. Khi lớn lên ở miền Nam, lối chừng 19, 20 tuổi khoảng năm 1965-1966, cậu từ giã học đường đăng lính, cậu đi lính Việt Nam Cộng Hòa ngành Biệt Động Quân. Sau chuyển qua Thám Báo. Cậu đóng quân như ở miền đồng ruộng, lúc bấy giờ còn loáng thoáng xa xa, ít dân cư, tiếp giáp một bên Đồng Ông Cộ, miệt Gò Vấp, Gia Định.
Chị nhớ lại, vào một buổi sáng ngày cuối tháng 1 năm 1973, khi Chị đi lấy bản tin ở bên Macv về cho AP, chị thấy sao hôm nay văn phòng đông thế. Ký giả của AP và cả của NBC News bên cạnh cũng chạy qua chạy lại, Chị nghe ông chánh văn phòng nói: Viêt Nam sắp ngưng bắn rồi, sắp hòa bình rồi…” Văn phòng Associated Press xôn xao, từ ông chánh văn phòng đến các ký giả, nhân viên của AP đều hứng khởi với cái tin “Nóng bỏng” này. Chị thấy các phóng viên của các hãng thông tấn, hãng truyền hình ngoại quốc chạy hối hả sang nhau và chạy qua cả đài phát thanh Quân Đội Việt Nam để cập nhật tin tức viết bài…


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.