Hôm nay,  

Dòng Sữa

27/04/202513:09:42(Xem: 2749)

Into the Storm
Tranh Nguyễn Việt Hùng

 

Khi một đứa trẻ khóc, có một điều gì đang xảy ra. Đói, khát, bệnh tật, giận dữ, đau, một điều gì trẻ con không diễn tả được. Người lớn không khóc vì họ biết cách diễn tả những xúc cảm ấy. Khi không biết cách, người lớn cũng khóc. Chiếc thuyền nổ máy rẽ sóng chạy đi, đứa trẻ cuối thuyền lại khóc rất to. Người mẹ lấy tay bịt miệng, nhưng nó khóc dữ quá, không ngừng. Tôi cố xích lại gần, đưa tay sờ lên trán. Đó là đứa bé trai mới sinh, vài ba tháng, xanh lét, gầy yếu. Không sốt, chỉ khóc ngằn ngặt, lịm người, mẹ dỗ thế nào cũng không nín. Thỉnh thoảng chị úp mặt đứa bé vào bầu vú, nó ngậm một lát, lại nhả ra, khóc ngất. Ngực chị xẹp lép, nhão, da từng lớp nhăn lại, tôi nghĩ như vậy là mất sữa, không phải tắc sữa. Nếu tắc, ngực sẽ cương, đau nhức.

Khoang thuyền chật, ngột ngạt hơi người, đứa trẻ càng khóc dữ. Một người nào lớn tiếng mắng nhiếc người mẹ. Nhiều người khác cũng bực bội lên tiếng hùa theo, mỉa mai, đe dọa. Ai cũng biết khi đi qua các trạm kiểm soát, tiếng khóc của đứa bé có thể làm lộ bí mật. Nhưng làm cho một đứa trẻ ba bốn tháng tuổi đang đói khát hay đang bệnh không khóc nữa là chuyện không thể được. Có một khoảnh khắc lẫn lộn khi ánh sáng và bóng tối xô vào nhau, bôi xóa, làm thành nhau, khi người ta ở trong sự lẫn lộn ấy, không có một quyết định nào được sinh ra. Người mẹ ngơ ngác nhìn quanh, tuyệt vọng, ngượng ngùng cúi mặt ôm con. Đứa bé càng khóc lớn, người mẹ cố dỗ cho con bú, chị lại đút núm vú đen đen vào miệng nó. Thằng bé ngậm một hồi ngắn, mút, nhả ra, về sau không thèm ngậm nữa. Nó khóc vì đói. Người mẹ, tôi nghĩ, có thể bị bệnh, có thể thiếu ăn, hay mệt mỏi do chạy trốn nhiều ngày, lo lắng, nên mất sữa. Người chủ ghe quay đầu xuống nhắc lần thứ hai, lần thứ ba, bảo cô ta làm cho đứa bé im miệng đi, ông nói, sắp qua trạm gác quan trọng trên sông, trước khi ra cửa. Lát sau, một người cúi đầu xuống qua lỗ thông hơi báo cho chúng tôi biết, bây giờ đã hết lãnh vực bảo trợ của họ, qua chòi canh này mọi người sẽ ra biển, đây là chòi canh hỗn hợp, vậy cần tuyệt đối trật tự, im lặng, anh dặn. Mọi người nhận ra tình huống gay cấn, căng thẳng, trong thuyền nghe được tiếng thở của nhau. Đứa bé sau một lúc mút mãi đầu núm vú nhăn khô nứt nẻ, lại khóc ngằn ngặt. Mọi người nhìn nhau. Sự bất lực là một cảm giác dị thường. Tôi không biết làm gì với tình huống trước mắt, tôi cố gắng kiểm soát những điều không thể kiểm soát.

Sự tồn tại của linh hồn trong thể xác là sự tồn tại mong manh. Không có nước uống trong ba ngày, tôi sẽ chết. Không có không khí để thở trong một phút, tế bào não tổn thương, trong ba phút, tôi mất ý thức, trong năm phút, cái chết đến. Sự biến mất của sự sống ra khỏi thân xác là không hồi phục. Sự tồn tại của con người thật yếu đuối, chỉ một thoáng, vô vàn hung hiểm. Chúng ta chỉ còn biết dựa vào nhau. Con người chỉ tồn tại trong mối quan hệ với người khác. Tôi thuộc về người khác.

Làm sao tôi có tự do nếu tôi thuộc về người khác?

Chính là trong khi thuộc về người khác mà tôi có tự do.

Một người nhìn tôi, từ phía sau. Người phụ nữ ngồi bên kia mạn tàu đối diện hai mẹ con khom người đứng dậy. Tôi tránh ra, tò mò quan sát. Một phụ nữ trẻ, có lẽ chưa đến ba mươi, môi son, mặt phấn, quầng mắt thâm lại, lông mày dài, ánh mắt nhìn mệt mỏi, buồn chán, bất cần, nhưng lấp loáng một tia sáng khó hiểu. Cách ăn mặc lạ, diêm dúa một cách dễ ghét, một cách ngây thơ, một cách đáng yêu. Giữa những người phụ nữ khác, lam lũ, bần hàn, ở giữa những bộ áo quần xám ngoét mà mọi người cố tình mặc vào trên đường trốn chạy, phong cách của cô thật không hợp tí nào. Thấy tôi nhìn tò mò, người đàn ông ngồi bên cạnh bảo khẽ vào tai tôi, nửa châm biếm nửa thích thú, đó là gái, từ Sài Gòn. Cô lách qua những kẻ nằm ngồi, tiến tới người mẹ, quỳ xuống trước mặt đứa bé, đưa tay ôm lấy nó. Người mẹ trao đứa con, ngỡ ngàng, cam chịu. Cô gái úp đứa bé vào ngực mình, luồn một tay vào dưới người nó, nâng lên, mở bật cúc áo ngực của mình. Cô ngồi nghiêng, dựa vào mạn thuyền, ép cho hai người khác ngồi xích ra. Trước khi tôi kịp nhìn kỹ, đứa bé đã vùi mặt nó vào ngực của người đàn bà lạ, mút lấy mút để. Thì ra đó là một người đàn bà cũng đang cho con bú, vì bầu ngực vẫn còn căng sữa.

Cô xuống thuyền lúc nào không ai biết, cô đi một mình hay đi với ai, đứa con đang bú sữa của cô thất lạc ở đâu, hay để lại trên bờ, cho ai, tại sao, mọi thứ đều mơ hồ. Bất cứ một kết luận nào vào lúc này là không thể. Không ai nói gì, mọi người lặng lẽ đưa mắt nhìn cảnh một người đàn bà cho trẻ bú. Tôi ngồi đó dưới quầng sáng của ngọn đèn vàng ảm đạm trên trần, nhìn người phụ nữ vạch áo, cúi xuống. Thời tôi còn nhỏ, mẹ tôi cũng bị khắt sữa, khi tôi lên ba tháng tuổi, bà đã bồng tôi đi bú nhờ những người phụ nữ mới sinh con khác trong xóm. Người quê tôi nói việc bú nhờ ấy là mẹ tôi tìm cách gọi sữa về. Sữa của người khác kêu gọi sữa mẹ về. Sữa mẹ cũng là sữa mẹ của người khác. Tôi nhìn thấy sự phụ thuộc, nhìn thấy tình yêu, sự gắn bó, nhìn thấy tình mẫu tử, sự đói khát, nỗi khổ nhục và lòng hy vọng trên khuôn mặt người đàn bà, hơi cúi xuống, xoay người lại. Tôi nhìn thấy ngọn đèn điện vàng lắc lư, không phải vì sóng lớn dù thuyền ngày một chạy ra gần phía cửa biển, mà vì những người ngồi trong thuyền lòng lo âu, không yên ổn. Người sợ hãi, người tức giận, người cầu nguyện, người chửi rủa, người thỏa hiệp, người chạy trốn, người tỏ niềm yêu thương, những tâm sự ấy thay đổi, khi nặng khi nhẹ, khi xa khi gần, làm con thuyền lảo đảo. Thế rồi nó cũng chạy ra đến giữa dòng sông và bắt đầu chạy băng băng dưới ánh sáng của vài ngôi sao thưa thớt, lúc này đã rẽ mây lộ ra, chiếu qua cái lỗ nhỏ trước mặt tôi, ở mũi thuyền. Tôi không thể nhìn thấy chính tôi được. Đời sống không phải là một tấm gương. Bên ngoài tấm gương, tôi cười nói thế nào, cử động ra sao, yêu mến và căm giận thế nào, trước mắt người khác, tôi không thể biết được. Khi nhận xét người khác, tôi cố không quên rằng người khác không nhìn thấy hình ảnh của họ như tôi nhìn thấy.

Con người ngậm kín cái tốt vào lòng. Để khỏi mua lấy vạ hiềm nghi ghen ghét. Tôi nhìn đứa bé từ sau lưng, sự rung động khẽ của đôi vai nhỏ bé, vẻ hạnh phúc của cái gáy nhỏ xíu măng tơ. Phút này qua phút khác, có lẽ lâu lắm, cho đến khi đứa bé bắt đầu thỏa mãn, bú chậm lại, nhưng nó vẫn ôm lấy bầu ngực của người đàn bà lạ, ngủ thiếp đi. An tâm, âu yếm úp mặt vào ngực người đàn bà, người mẹ thứ hai của nó, vì người đàn bà nào mà cuối cùng không phải là một người mẹ, khuôn mặt của nó đẹp như thiên thần. Bây giờ người phụ nữ ngồi im lặng. Cô lắng nghe tiếng động khẽ khàng của đứa bé, hơi thở của nó, nhịp tim đập của nó, sự vận động của các bắp thịt, tiếng nước chảy, lắng nghe khuôn mặt của đứa bé, run rẩy, hạnh phúc. Sau này, mỗi khi nhớ lại, hình ảnh người đàn bà và đứa trẻ lại hiện ra trong tôi tươi mát như mưa xuân trên mạn thuyền, khi người ta có thể gọi sữa về từ một bến bờ xa lạ nhưng cũng thật gần. Tôi nhận ra không phải ta đi tìm tuổi thơ của mình mà tuổi thơ đi tìm ta, tìm và lay gọi.

 

Nguyễn Đức Tùng

 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Bà mỉm cười khi thấy chén bát thằng bé đã xếp gọn gàng. Bà nhấc lên khỏi mặt bàn, dưới cái đĩa cuối cùng thì bà thấy có một tờ giấy bạc 50.000 đồng chặn ở dưới! Con cám ơn.
“Sắp về Việt Nam đó.” Dễ Thương thông báo một buổi chiều thứ tư. Trời còn chút mùa xuân. Nắng trong, gió nhẹ. Bất ngờ như hụt chân bước lọt vào khoảng trống, người đàn ông hoảng hốt, “Chừng nào về?” “July.” “Sắp tháng Bảy rồi.” Nụ cười nở ra trên cánh môi. Con mắt ướt như có gió có mưa đâu đó tạt về. Cõi lòng như cái ống nước cao su bị xoắn, người đàn ông kiếm giùm cô một cái cớ. Tháng Bảy ở Việt Nam thì có gì nhỉ. Loài hoa nào nở vào tháng Bảy ở quê nhà. Mùa mưa bắt đầu từ tháng nào. Bão nhiệt đới thổi về. Bão rớt từ biển đông. Tháng Bảy có gì. Xa Việt Nam lâu quá, người đàn ông quên mất tiêu.
Tiếp tục loạt bài về trận đánh Điện Biên Phủ kết thúc chiến tranh Đông Dương lần thứ nhất, nhà văn Trần Vũ phân tích chiến thuật chiến lược của đôi bên, Pháp và Việt Minh, từ mắt nhìn của một nhà quân sự. Việt Báo trân trọng giới thiệu.
Hôm nay, ngày 30 tháng 3 năm 2022, đúng 47 năm ngày kỷ niệm trận Khánh Dương, Lữ đoàn 3 Nhảy Dù rút quân về Phan Rang, theo sau là đoàn xe của quân đội và đồng bào theo chân quân đội quốc gia xuôi về nam lánh nạn cộng sản.
Anh ta là bạn cùng xóm và cùng lớp với anh tôi. Trong khi anh tôi hiền lành thật thà bao nhiêu thì anh ta mưu mô, gian xảo bấy nhiêu...
Chỉ có tình thương mới đem hòa bình cho thế giới, chỉ có lòng thương yêu bớt hận thù, và người bị bệnh nói nhiều cũng phải vì lý do gì đó, sự uất ức dồn nén trong đầu, trong tim...
Mùa xuân Tự Thánh nguyên niên, Trường An tưng bừng khai hội hoa xuân, bá tánh trong ngoài thành hớn hở trẩy hội, nam thanh nữ tú dập dìu, tài tử giai nhân lả lướt, đại gia quyền thế cũng chen chúc vào ra. Trường An chưa bao giờ rực rỡ và đẹp như thế....
Gái muộn chồng thì thậm khổ/ Trai muộn vợ cũng thậm khổ/ Mây trên trời thì kéo xuống/ Gió ngoài biển thì thổi vô...
Đại Quan họ Đỗ, quê cha đất tổ ở Huyện Nho Quan, Tỉnh Ninh Bình, một vùng núi non hùng vĩ, sơn thủy hữu tình nhưng nghèo. Ninh Bình là vùng đất hẹp, người đông cho nên đất đai quý hơn vàng. Tổ tiên bao đời sống bằng nghề nông, đổ mồ hôi nước mắt trên vài mẫu ruộng, sống chết với ruộng đồng nhưng cuộc đời vẫn không khá.
Gần 2 thập niên quen biết, học hỏi và làm việc cùng Thầy. Mới thấy sự tận tụy, miệt mài của Thầy, nhất là những khi dịch kinh điển. Tuổi cao mắt mờ và không rành máy tính, Thầy viết bằng tay, dò từ chữ với kính rọi phóng đại. Rồi nhờ người đánh máy, rồi Thầy dò lại, v.v… Nghiệp làm sách, trong đó có những tập kinh của Thầy dịch, có lần Thầy gởi tiền lì xì tặng "người thiết kế sách" và nhắc anh chàng tội nghiệp, bảo rằng "dẫu có hư, nhưng không hỏng", hãy thương yêu đùm bọc nhau và làm việc cho Phật giáo. Thầy là một số ít vị Tăng lữ xem việc ấn bản những kinh kệ, sách vở văn hoá Phật giáo là quan trọng và thường khuyến tấn. Thầy, một con người khiêm cung, hiền hoà và mẫu mực.
Alphonse Daudet (13/5/1840 - 16/12/1897) là một nhà văn Pháp và là tác giả của nhiều tập truyện ngắn nổi tiếng. Ông sinh ra ở Nîmes (thuộc miền Nam nước Pháp). Ông bắt đầu viết văn từ năm 14 tuổi, đến năm 18 tuổi Alphonse ra thi tập "Những Người Đàn Bà Đang Yêu" (Les Amoureuses, 1858) và được đón nhận ngay. Độc giả Pháp đặc biệt yêu mến ông qua các tiểu thuyết "Thằng Nhóc Con" (Le Petit Chose), gần như là thiên hồi ký của thời niên thiếu đau khổ của chính mình mà đôi khi cũng được ví với nhân vật trong tác phẩm "David Copperfield" của đại văn hào Charles Dickens của Anh. Những năm sau ông viết nhiều tiểu thuyết cũng thành công không kém, qua các đề tài xã hội của một nước Pháp dân chủ thay thế cho chế độ quân chủ. Cho đến cuối đời, Daudet dao động từ niềm vui thẳng thắn (Nhân vật huyền thoại Tartarin de Tarascon) đến sự mỉa mai như quất mạnh (Numa Roumestan), hoặc nỗi u sầu bệnh hoạn nhất.
Đôi tay, cánh tay, thân mình của anh bê bết máu, Anh đã men theo hàng rào kẽm gai suốt mười cây số mà không thể luồn bên dưới rào được. Anh cũng không hề thấy một nơi nào có kẽ hở để lách qua. Nhưng mà ở ngay phía bên kia, chỉ cách chừng năm mươi phân thôi, ở bên trên những vòng dây có gai nhọn hoắt làm rách toạc mọi thứ, một thế giới khác sẽ hiện ra, nơi đó nhà cửa không đổ sụp xuống, nơi đó đàn bà, trẻ con không lẩn trốn như thú vật, và đàn ông thì không còn sợ hãi, không còn chịu cảnh đói rách lạnh rét nữa.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.