Hôm nay,  

Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu

06/06/202500:00:00(Xem: 352)
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu,
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?”
Thơ Kiều của cụ Nguyễn Du
 
Có một lần đó thầy kể lại chuyện rằng, thầy có một phật tử chăm chỉ tu học, đã hơn 10 năm, theo thầy đi khắp nơi, qua nhiều đạo tràng, chuyên tu chuyên nghe rất thành kính. Nhưng có một lần đó phật tử đứng gần thầy, nghe thầy giảng về phát bồ đề tâm, sau thầy có đặt một vài câu hỏi kiểm tra coi thính chúng hiểu bài tới đâu? Cô vội xua xua tay, “bạch thầy, những điều thầy giảng, con hiểu hết, con hiểu hết mà. Con nhớ nhập tâm. Nhưng đừng, thầy đừng có hỏi, bị là con không biết trả lời làm sao đâu.” Có lẽ là cô hiểu ý mà cô chưa sẵn sàng hệ thống sắp xếp thứ tự lại các ý tưởng.
 
Và may thay có một người bạn đạo, ngồi khít bên đỡ lời, “đúng vậy, nhất thiết chúng sanh giai hữu phật tánh,” điều hoan hỉ là mọi người đã chăm chú nghe, đã hiểu, đã hiểu lời thầy giảng, nhưng đa phần chúng mình không thể nói lại ngay những lờ giảng dậy, vì nói được thì phải nói rất đúng, rất hay như chánh pháp, còn không, hãy im lặng như chánh pháp. A Di Đà Phật!
 
Có người nói hay (hay viết hay cũng thế) như ông nhà văn Thanh Tịnh thì nhắc tới, ai cũng biết câu văn thân thuộc của ông: “… hàng năm cứ vào cuối thu, lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại nao nức những kỷ niệm mênh mang của tuổi tựu trường… buổi mai hôm ấy…”
 
Y vậy, Anatole France, của Pháp, vẫn kể rằng: «hàng năm, khi bầu trời chập chùng le ciel agité của mùa thu và những bữa cơm chiều đầu tiên dưới ngọn đèn và những lá cây vàng úa trên cành cây rung động, lại gợi lại cho tôi những gì?”
 
Đó là hình ảnh một cậu bé lưng đeo cặp sách, vừa đi vừa nhảy những bước chân sáo băng ngang vườn Lục Xâm Bảo… vào những lúc đẹp nhứt là lúc những chiếc lá vàng rơi lả tả trên vai những pho tượng trắng trong vườn… vâng đó là hình ảnh của tôi, của chính tôi 25 năm trước…
 
Còn ngược lại, cũng có những người nói nhiều, nói lớn, mà đố có ai bên cạnh hiểu được họ muốn nói gì, họ rất gần và rất xa nhau. Người ta kể rằng mấy ông giáo sư đại học Harvard nói lại trong một lớp học, học trò ông đang tranh luận, bàn cãi về một vấn đề. Thì các sinh viên của ông ăn nói rất lưu loát và tốt giọng, nghĩa là anh này nói thiệt lớn, đối diện một cô bạn cũng nói thao thao không ngừng nghỉ, à là họ tranh luận rất logique. Nhưng họ càng nói nhiều, càng không hiểu nhau lắm vì họ ít để ý đến lời của nhau. Họ đứng rất gần, nói rất lớn giọng, mà tâm ý họ càng xa nhau… rồi kết luận không khả quan. Y như vậy, cô A kể, ai cũng thấy, trên một chuyến xe métro, mọi người ngồi kế bên nhau, mà họ rất xa nhau, vì là mỗi người đang coi một cái tablette hay Ipad, theo dõi những câu chuyện riêng tư của mỗi người... đến nỗi tai nạn xẩy ra với người này, người kia ít có hay, để trợ giúp nhau kịp thời. Tựu trung, nói nhiều quá, hay không nói, đều không tốt.
 
Một nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ ví thế giới hôm nay hơi giống một bệnh viện tâm thần, khi một người hảo tâm muốn vào vấn an những bệnh nhân, họ đối thoại và nhận thấy những câu trả lời đối đáp qua lại của đa số bệnh nhân đều có lý, đều có một hàm ý và không phải là vu vơ, không phải là điên loạn mà trả lời lung tung, nhưng, nếu ráp nối những câu trả lời đó lại, người ta không thể hiểu họ muốn nói gì?
 
Cũng tương tự như thế giới từ đông sang tây, có rất nhiều doanh nhân, danh nhân hào nhoáng, tài giỏi, họ đưa trình, thể hiện các nền văn minh hiện đại, với tất cả nghệ thuật khôn khéo để hóa trang, để mua bán chính trị và quyền lợi làm đảo lộn đa phần nền văn minh và đạo đức nhân bản gây thảm họa không ngừng cho nhân loại.
 
Điển hình như đại dịch covid vừa qua. Bao tang thương, bao khốn khổ khắp nơi nơi, rồi tất cả cứ đổ tội đời là vô thường.
 
Mà đời là vô thường thiệt, vì nhân loại đang chịu trận, chứ có làm gì chống đối lại được những kẻ nắm quyền, nhiều thế lực... nhiều ảnh hưởng và dã man. Ở một khía cạnh khác, về tâm linh, đời là vô thường.
 
Như chuyện kể sư cô Diệu Trí ở chùa Tâm Ấn, một miền hẻo lánh ở Đại Từ, vùng phụ cận xa lắc xa lơ Hà Nội.
 
Sư cô kể rằng, khi đại dịch covid vừa tạm yên yên, chùa tổ chức lễ cúng vong, bái sám và xin hồi hướng công phu cho các vong linh quanh vùng vừa quá vãng. Thì có một buổi xế trưa vào chiều, chùa có hai người khách xin ghi tên những người thân quen qua đời trong nạn covid, đặng xin độ niệm cho họ siêu thoát.
Một người thì ghi một cái danh sách tên tuổi pháp danh người thân dài thiệt dài, cả một trang giấy, sư cô đặt câu hỏi:
 
Thí chủ cầu cho nhiều người thế, chẳng hay là thí chủ phát tâm xin cúng cho cả gia đình toàn thể nội ngoại, cả bà con bạn bè, hay cả khu phố sao? Ừ thì đa tạ tâm bồ đề của thí chủ.
 
Bạch sư cô là, nói nào ngay, trước đây ngoài gia đình thân quyến, con lỡ cãi lộn, gây lộn với tụi họ nhiều lắm, nay con buồn, con nghĩ con phải xin cúng, cầu hồng ân tam bảo gia hộ cho chúng họ siêu thoát.
 
A Di Đà Phật.
 
Xong sư cô coi danh sách xin vong của người khách thứ hai, trong tờ giấy, chỉ vỏn vẹn có hai tên người, là cha cô và mẹ cô.
 
Sư cô không thắc mắc… nhưng rồi người này cũng buồn buồn kể lể:
 
Con cũng có nhiều người thân, người quen biết lắm mà giờ này, chúng họ hình như bệnh mà chết hết ráo trọi, hay chán đời dọn bỏ đi đâu xa hết rồi.
 
Con không còn nhớ được họ nữa. Nhớ chi cho mệt! Cô Diệu Tâm hơi tức cười mà cố nín lặng.
 
A Di Đà Phật. Sự thế đó gọi là vô thuờng. Rồi họ cùng im lặng. Sư cô sau đó mời họ dùng trà và cùng lễ phật... cô mời họ cùng nghe nhạc thiền, hòa tự tâm bình, bản nhạc êm dịu nhẹ nhàng phảng phất ít nhiều tư tưởng của kinh Trung A Hàm, bản kinh truyền tải thông điệp về lòng nhân ái và tình thương của đạo pháp.
 
Sư cô Diệu Tâm nhắc nhở được ít nhiều những lời giảng của thầy Thích Tâm Đức gần đây, nhứt là trong mùa phật đản, thầy nhấn mạnh về một trong bốn nguyện của tứ hoằng thệ nguyện, chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
 
Thầy am hiểu phật tử đến chùa, chùa là nơi thanh tịnh thầy giảng trò nghe, bạn đạo yêu kính và hiếu thuận nhau, thì việc tu tập khá dễ dàng. Nhưng trong cuộc sống hàng ngày ngoài đời, đầy rẫy tham sân si, ngược xuôi xuôi ngược, khó thuận chiều xuôi gió với nhau, do đó, chúng sanh được khuyên bảo, cứ theo y pháp, lấy kham nhẫn, khiêm cung mà hành xử đối nhân xử thế.
 
Trong cuộc sống xô bồ, người trái ý nhau cũng nhiều, người thuận ý nhau cũng khó. Thói lề nhân sinh cứ kể ra thì có nhiều loại người khác nhau, thầy và y pháp luôn nhắc nhở phật tử tùy theo căn cơ tương báo nghiệp duyên mà hành xử đối đãi. Nhưng dù hành xử theo cách nào, thì cũng nên căn cứ trên chủng tử tốt lành nhứt của một con người, một con người đang được làm người trong hiện tại là họ có, đã có một chủng tử nguyên nhân tốt lành, dù nhỏ bé, vẫn tồn tại, thị hiện, dù trong một quá khứ rất xa xôi nào đó.
 
Thêm nữa, điều cốt yếu, ta luôn phải bảo trọng gìn giữ thân thể khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh. Thân thể khỏe mạnh, tâm trí sáng suốt, có trí tuệ. Thân và tâm song hành khỏe mạnh, hành giả mới hội đủ sức lực để học tập đạo pháp và tu tập giải thoát được cho mình và cho người.
 
Khi tâm trí và cơ thể sáng suốt, hành giả dễ điều phục cân đối hóa giải tham sân si. Điều phục an bình tiểu vũ trụ là điều phải làm trước, sau đó mới có thể nhìn ra cảnh quang đại vũ trụ bao bọc xung quanh. Thầy Tâm Đức luôn rao giảng:
 
Cảnh bình thì tâm sẽ bình
Tâm bình thì cảnh sẽ bình
 
Trong hoàn cảnh, cảnh không bình, mà tâm bình, là bạn tu tập đã tiến bộ.
 
Ngay khi còn trẻ, còn khỏe, thầy khuyên rằng phải siêng năng và tụ tập, vì trên con đường luân hồi vòng vo dài vô tận, không biết lúc nào đó sẽ có những chướng ngại va vấp phải, việc tu thân học pháp vốn là trọng yếu và phải năng động chuyên cần. Không giãi đãi. Trên con đường lữ hành vòng vo của luân hồi nghiệp chướng, hành giả có cơ man là bạn đồng hành.
 
Họ cùng ta đi chung và đứng chung trên cầu sinh tử. Thầy dạy hành giả nên đối đãi và sống với họ bằng tâm yêu thương của bồ tát, vì dù sao không bằng bồ tát, cũng nên cố gắng tối đa, khi cho người cũng là cho mình cũng là cho người khác vậy.
 
Trong va chạm của cuộc sống, tiểu vũ trụ biến đổi luôn và biến đổi không lường, vì mỗi chúng sanh tánh ý khác nhau, y vậy, các tiểu vũ trụ trong ta bà thế giới là cơ man khác biệt. Cuộc sống đời đầy lo toan và tranh cãi. Hành giả vất vả đối phó với nhiều hành giả khác nhau đại loại như:
 
Có người có tâm ý và lời nói đều thanh tịnh.
 
Có người tâm ý thanh tịnh mà khẩu hành không đẹp.
 
Có người khẩu hành đẹp mà tâm ý xấu
 
Có người lời nói, ý nghĩ và việc làm đều không đẹp, nhưng thỉnh thoảng tâm họ hé mở rộng, có ít nhiều tịnh tín, dễ thương.
 
Có người ý nghĩ luôn xấu, lời nói luôn xấu, không có môt lúc nào, một chút gì dễ thương, mà xã hội gọi là kiểu người hết thuốc chữa… nhưng vẫn có thể chữa được, vì họ vẫn đang là một con người.
 
Vậy là cá nhân ta, đối diện, sống chung, tranh luận với những kẻ đồng hành khác biệt làm sao cho ổn? Thưa là chúng ta luôn luôn song hành với những bạn đồng hành khác ý, bạn bè, anh em, vợ chồng. Mỗi cá nhân là một biệt lập, họ không thể giống ta, ta cũng không thể theo ý họ… mọi người sống bên nhau, không thể luôn phải giống nhau, trừ kiểu bạn mua một robot và lập trình nó, lại là chuyện khác xa. Không nói tới.
 
Trong trường hợp thông thường, khi khác ý, y pháp gợi ý phải bình tĩnh, định tĩnh để trở vô chánh niệm, để chế tác các năng lượng bình an, bình an cho mình và luôn cả cho người.
 
Khi xưa, phật tổ đi giảng pháp độ sinh, ngài vượt qua rong ruổi từ 8 đến 16 quốc gia dọc theo bờ sông Hằng, ngài đi thuyết pháp và gặp cơ man là chướng duyên, chứng tỏ ai ai cũng có oan gia từ vô lượng kiếp, không phải một mình hành giả đây. Nhưng qua những khó khăn, phật tổ đã dậy chúng sanh biết bao nhiêu là bài học về lòng nhân ái và tình thương đại từ đại bi.
 
Trở lại vấn đề khác biệt, người ta có thể tranh luận. Nhưng là tranh luận trong sáng, không phải là cãi nhau, mà trong tinh thần, cả hai bên, phải biết hướng về bản thể nhị nguyên, không sân hận, không sỉ vả, chấp nhận lý lẽ vận hành có xấu có tốt xen kẻ nhau ở cạnh nhau.
 
Hiện trạng khó đối mặt chỉ được giải quyết trong tinh thần lắng nghequán chiếu, mỗi bên ráng đặt ta vào hoàn cảnh của người, vì ít có ai muốn sống ác.
 
Để tránh lòng sân hận có thể phát khởi, người ta cố gắng nhìn ra điểm tốt để tránh bế tắc. Như đi lượm một mảnh vải vụn, còn tốt, rơi bên đường, mang về giặc sạch, rồi ghép nối, may y phấn tảo! Được quá đi chớ! Rác thải còn làm tưới bón cho hoa hoa tươi nở rộ ven đường kia mà.
(thầy Nhất Hạnh)
 
… Khi xưa bên lối cỏ mòn,
Sư cô gánh nước lên non tưới vườn.
Ê a câu kệ vô thường,
Rớt theo giọt nước bên đường cỏ khô.
Hôm nay lối cũ tình cờ,
Thấy Như Lai trụ bên bờ cỏ xanh!
 
Người ta có thể tranh luận, bàn thảo khéo léo, không gây sân hận và tránh thù hằn vì oán thù nên cởi không nên cột.
 
Khi tranh luận, hành giả “không đa ngôn đa quá” và hạn chế không nói, không nghĩ về lỗi của người.
 
Một cuộc tranh luận khéo léo, chân thành, không sân hận, mà với tinh thần đắc tha tâm tha nhân sẽ cho ra những kinh nghiệm tốt hơn, những chất liệu sống vui đẹp hơn, bởi lẽ cuộc sống này là vận hành của một vũ trụ nhị nguyên, đêm có mặt trăng, ngày có mặt trời, có buổi sáng có buổi tối… có vui có buồn, có nhịp nhàng đưa đẩy, có thành công có thất bại. Sau một cuộc chiến, có vô số người chết và vẫn có vô số người tồn tại. Người bắn giết cứ bắn giết, người cứu cứ tận tâm cứu độ…
 
Vậy hành giả tranh luận với hành giả bạn, để tìm ra ý kiến hay, tốt, hợp lý và tuyệt đối không lấy sân hận làm nền. Chư phật dậy phật tử học, tu, tập quán chiếu theo quán tự tại bồ tát, lắng nghe để điều phục tiểu vũ trụ.
 
Chỉ khi nào tiểu vũ trụ được an hòa trong chánh niệm, may ra hành giả mới đủ lực để hồi hướng phước đức cho tha nhân.
 
Trải qua nhiều kiếp luân hồi, mọi chúng sanh đang làm người đều nhiều ít có căn lành. Nên chư bồ tát, phật Quán Thế Âm luôn lắng nghe tiếng gọi cứu độ của thế gian với tâm nguyện hải hà: chúng sanh vô biên thệ nguyện độ.
 
Ngày nay, toàn thế giới, rất nhiều nơi, các nước tân tiến họ hết chỗ nhốt tù nhân, họ đang rao để thuê đất ở một quê hương khác để có chỗ nuôi và giáo hóa tù nhân vì sau cùng, may thay, họ không ghét và trừ bỏ, họ dậy dỗ lại và cứu vớt, hóa độ, để mong có ngày phật, chúa hóa hữu duyên nhân.
 
Trong hiện tại, thế giới vô vàn rối loạn, để cầu an bình, mọi hành giả chúng ta hướng tâm về hạnh nguyện của đức Đại Hành Phổ Hiền Bồ Tát:
 
Tùy hỉ công đức tùy nguyện chúng sanh.
 
Nói chung cuộc,
 
Nếu mỗi hành giả tu, học, hiểu để siêng năng quán chiếu, tùy thuận chúng sanh, hai chiều hổ tương tốt đẹp, an hòa, để cố đi đến chỗ ta và người cùng giải thoát.
 
Chưa hẳn nói là được giải thoát khỏi luân hồi lục đạo vội vã mà chi, chỉ trước mắt là được giải thoát khỏi buồn giận, sân hận và thù nghịch, đầu mối của chiến tranh.
 
Thưa là: Cảnh bình thì tâm sẽ bình
Tâm bình thì cảnh sẽ bình
Và sau cùng tâm bình thì thế giới bình.
 
A Di Đà Phật
Mùa Vu Lan 2025
Chúc Thanh
 
Chúc Thanh thành kính tri ơn thầy Thích Tâm Đức
 

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Xâu chuỗi ngọc. Những viên đá quý. Tôi lại mỉm cười. Quý hay không quý tôi cũng không biết. Tôi không biết gì về vàng bạc, nữ trang. Tôi chỉ biết là tôi thích những tia màu phản chiếu lấp lánh phát ra từ những hạt đá nhỏ trong xâu chuỗi. Những tia màu như những câu chào hỏi rộn ràng. Cũng có thể xâu chuỗi làm bằng những hạt đá giả bằng nhựa. Bởi chúng rất nhẹ. Người đàn bà làm tôi xiêu lòng. Tôi sẽ mua tặng người yêu như lời bà ta nhắc nhở, dù tôi không chắc là đến ngày tháng này tôi đã có người yêu hay chưa. Tiểu Quyên là người nữ duy nhất trong thế giới tôi. Nhưng Tiểu Quyên với tôi là hai người bạn, hay đúng hơn là hai chú cháu.
Chiếc xe đò rẽ vào ngả ba Lộ Tẻ, chạy chậm lại rồi ngừng hẳn. Trên xe một số người nhốn nháo, ló đầu ra cửa sổ xem có chuyện gì. Anh phụ xe nhảy xuống vội vàng chạy về phía trước. Đã hơn 2 giờ chiều, trong xe hầm nóng và trở nên ồn ào. Vài phút sau, anh phụ xe trở lại và báo tuyến đường về Rạch Giá đã đóng vì nước lũ về ngập một số đoạn đường dài phía trước. Tất cả bà con phải xuống xe, hoặc tìm nhà nghỉ tạm chờ nước rút, hoặc bao đò máy về Rạch Giá. Đó là một buổi chiều giữa mùa nước nổi, tôi theo dòng người bước xuống xe, trời hanh nắng và đứng gió. Đường xá, đò ghe tôi không biết rành, chắc là phải tìm nhà xin trọ, chờ nước rút.
Rứa là tui được hưởng hai cái bánh nhỏ thanh tao dòn rụm, bột họ pha răng mà mê rứa không biết, kèm mấy lát vả, lát khế, rau sống chấm nước tương pha chế ngon ơi là ngon. Tỉnh táo bao tử rồi hắn chở tui đi vòng thành phố Huế, qua khu Thương Bạc, ủa bữa ni răng mà người đông rứa, bớt vẻ yên tĩnh như ngày xưa, tiệm quán cũng mọc lên khó còn đất trống. Vừa đi hắn vừa kể nỗi gian khổ lúc trẻ, nay thì hậu vận quá tốt, con có địa vị thành công, chồng cưng yêu nhiều hơn lúc tuổi xế chiều, mà nhìn kỹ hắn tươi đẹp mặn mà ghê, chắc hạnh phúc gia đình biến sắc thêm xinh hè. Đi nửa ngày hắn thả tui về nhà” tau bận chút chuyện, sẽ gặp mi sau nữa nghe. Tui cám ơn hắn, gần 50 năm tuy xa mà hắn vẫn nhớ, vẫn đầy tình bạn thân thiết như hồi mô.
Sàigòn cũng như Phan Rang không có 4 mùa, nhất là mùa Thu. Nhưng Sàigòn cũng như Phan Rang đều có những đêm trăng Thu mờ ảo đẹp và buồn giống như mắt của em.
Cuộc điện thoại đã dứt mà Tử Linh vẫn còn đứng tần ngần một lúc rồi mới quay trở ra hiên, ngồi xuống cái ghế gỗ mà khi nãy cô đang ngồi, vừa đọc sách, vừa nhâm nhi tách trà nóng và những chiếc bánh madeleine thơm mùi vanilla trước khi tiếng chuông điện thoại từ trong phòng khách buộc cô phải chạy vào...
Ba đứa chơi thân với nhau tự thuở nào, thiên hạ ai cũng bảo ba đứa ấy như hình với bóng, họ còn kháo nhau là mật thiết hơn cả tam tinh, tam điểm, tam tụ, tam anh… Chẳng cần kết nghĩa đào viên nhưng chúng sống chết có nhau, chưa bao giờ rời nhau một li hay một khoảnh khắc nào. Thỉnh thoảng cũng có xung đột giữa ba đứa nhưng rồi cũng trôi qua êm thấm. Cả ba nương tựa nhau, hỗ trợ nhau, sinh hoạt qua lại với nhau. Thật tình mà nói thì chỉ có hai mới đúng, vì thằng Tưởng vốn là đệ tử ruột của thằng Tâm mà ra, tuy nhiên vẫn có sự khác biệt nào đó nên thiên hạ cho là ba, nói cho cùng thì là bộ bà cũng đúng hay khắt khe bảo bài trùng cũng không sai.
Lật bật đã tới tháng 9 mùa tựu trường. Lòng nao nao nhớ thời học sinh nhỏ nhít đất thần kinh xưa. Ở Huế, mùa tựu trường cũng tưng bừng rộn rịp như bất cứ nơi nào khác trên đất quê nhà. Cũng bâng khuâng luyến tiếc những ngày hè tươi đẹp chóng qua. Cũng nao nức trở lại trường lớp gặp bạn thầy cũ, mới. Có khác chăng mặt mũi mấy cô mấy cậu học trò đều phảng phất một vẻ nghiêm trọng. Làm như mình đã trưởng thành tới nơi!
Cách đây 5 năm ông bà này có cho một cậu sinh viên Việt nam trẻ tuổi, đáng tuổi con cháu xin mướn phòng ở trọ học tại nhà ông bà cho đến đầu năm tới 2025, cậu sinh viên này sẽ tốt nghiệp đại học 4 năm với văn bằng cử nhân
Cũng như các trại tỵ nạn khác, ở Thailand cũng có một khu “nhà tù” dành cho những người tỵ nạn không chấp hành quy định của Bộ Nội Vụ Thái hay của Cao Ủy tỵ nạn. Thời hạn ở tù tùy theo mức độ phạm quy, có khi từ một vài ngày cho tới một hai tuần. “Tù nhân” cũng đủ loại, nhẹ thì có những người mua lén đồ ngoài hàng rào, thức quá giờ giới nghiêm, quên làm vệ sinh khu nhà được phân công, nặng hơn là thành phần đánh lộn, gây mất trật tự trong trại, trộm cắp vặt, trốn ra ngoài trại đi chơi.
Tháng 7 năm 1954, hiệp định Genève chia đôi đất nước Việt Nam, người Pháp thất bại ở mặt trận Điện Biên Phủ, trả lại chủ quyền miền Bắc cho việt cộng. Việt Minh kéo từ mạn ngược và khắp nơi chúng đã ẩn náu về tiếp thu thủ đô Hà Nội và sau đó, toàn thể các tỉnh thành phía Bắc cho vào tới vĩ tuyến 17. Chúng ta mất một nửa giang sơn. Pháp có 80 ngày chuyển giao Hà Nội, 100 ngày giao Hải Dương, 300 ngày trả Hải Phòng, rồi chấm dứt. Việt cộng nằm vùng trong miền Nam cũng tự do ra Bắc tập kết, dù rất ít, nhưng làn sóng người miền Bắc di cư vào Nam thì đông nườm nượp… như nước vỡ bờ, họ chạy trốn, họ sợ cộng sản, họ sợ cái chế độ tam vô đang rượt đuổi sau lưng. Họ ra đi lánh nạn, đa phần phải bỏ lại gia sãn của cải, mồ mả cha ông… họ ra đi nhanh, mau lẹ nhất là các thành phố Hà Nội Hải Phòng, các xứ họ đạo công giáo Bùi Chu, Phát Diệm… có người vội vã đến chỉ ôm theo một tấm ảnh đức mẹ Maria… họ rủ nhau cứ xuống Hải Phòng là có tàu há mồm, há mồm chờ sẵn, chờ họ lên tàu và chở họ vô miền Nam.
Hà Nội có mùa Thu, Ninh Thuận quê tôi ở đó chỉ có hai mùa nắng gió. Buổi sáng mai hôm ấy mẹ tôi âu yếm nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua con đường làng Xóm Động, rồi đến con đường cái quan tráng nhựa. Mẹ tôi nắm lấy tay tôi dẫn tôi đi qua cầu "Ông Cọp", rồi cầu "Nước Đá" và đến tận cửa trường tiểu học Phan Rang. Tôi cúi đầu đi qua cổng trường có tấm biển lớn có hàng chữ Tây: "Indochine Francais- École Primaire De Phanrang"...Giữa sân trường có cột cờ với lá cờ ba màu của Pháp treo tận chót vót. Trường của tôi hình như vừa quét nước vôi và có cửa kiến, tôi thoáng nghe mùi cửa sổ mới sơn.
Trước năm 1975, ngày đó tôi còn là một cậu thiếu niên ham thích đọc tiểu thuyết trinh thám mạo hiểm của Người Thứ Tám với nhiều câu truyện phiêu lưu, hồi hộp của chàng điệp viên Z-28 đào hoa, đẹp trai Tống Văn Bình. Tôi còn nhớ chàng điệp viên tài giỏi, võ nghệ siêu quần của chúng ta được phái đi thi hành một nhiệm vụ tình báo tại Maldives, một đảo quốc mà khi chúng ta nhìn về phía chân trời, nơi Trời và Biển gặp nhau, vì chính chúng ta cũng đang sống trên mặt nước...
DB Derek Trần: Tôi làm tất cả để bảo vệ cộng đồng mình trong vấn đề di trú

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.