Hôm nay,  

Khóc Cha

15/06/202510:28:00(Xem: 3344)
Father
Ảnh: Sỏi Ngọc

Biết bao nhiêu bài viết về Mẹ, công ơn sinh thành, hy sinh của người Mẹ vào ngày lễ Mẹ, nhưng hôm nay là ngày Father’s Day, ngày của CHA, tôi tìm mãi chỉ được một vài bài đếm trên đầu ngón tay thôi. Tại sao vậy?

Người cha cũng có nhiều công lao dưỡng dục, mặc dù không là người trực tiếp mang nặng đẻ đau như người mẹ, nhưng người cha đổ rất nhiều công lao như đi làm kiếm tiền trang trải cuộc sống, gánh vác cả gia đình; cuộc sống có tốt đẹp, ấm no, con cái có học hành, phẩm hạnh đạo đức không, chính nhờ phần lớn mồ hôi, công sức nuôi dậy của người CHA.

Tôi là đứa con trai giữa trong gia đình năm chị em, ba gái đầu liên tiếp và hai trai sau, mà tôi là người anh đầu. Lẽ ra ba chỉ muốn có hai người con, một trai và một gái thôi, hoặc ba người là nhiều rồi, vì ba bảo có nhiều con vui thật nhưng trách nhiệm nặng nề, phải nuôi con đến nơi đến chốn, cho ăn học và đến khi chúng lập gia đình mình cũng còn phải lo!

Mỗi lần mẹ mang bầu là mỗi lần ba đặt nhiều hy vọng, mong một thằng cu! Ba hay kể với bác Tư, bạn thân của gia đình là ba cảm thấy rất phấn khích, khỏe mạnh khi “gần” mẹ, chắc chắn kỳ này phải là đứa con trai. Thế nhưng kết quả là… người chị cả ra đời!

Ba tự an ủi, nói với ông bà Nội rằng:

- Không sao, đứa đầu lòng là gái hay trai cũng được, là con gái thì sau này nó dậy dỗ trông nom em càng tốt hơn nữa, nhất là chỉ bảo em trai thì tốt đẹp biết bao.

Hai năm sau, mẹ mang bầu, ba đặt tất cả kỳ vọng vào cái bầu tròn căng vượt mặt của mẹ. Thuở ấy chưa có siêu âm ở những vùng tỉnh nhỏ, nên chỉ nhìn dáng bụng thì suy đoán là trai hay gái mà thôi; ông bà nội với nhiều kinh nghiệm, ngắm cái bầu của mẹ khi lên Dalat thăm gia đình nhỏ của chúng tôi:

- Nhìn cái bầu tròn như thế thì 80% là con gái rồi!

Ba cố chống đối:

- Nhưng sao kỳ này mẹ chúng nó lại thích ăn ngọt chứ không thích ăn chua như lần mang bầu đầu tiên, có thể nào là con …trai?

Đứa con gái thứ hai ra đời, ba có hơi thất vọng.

Đến ba năm sau, ba lại nhất định “thua keo này ta bầy keo khác”, không chịu thua số phận, hy vọng tăng trội hơn khi thấy khuôn bụng của mẹ nhỏ gọn hơn hai lần trước.

Ngày mẹ đi sanh chỉ có ông bà ngoại bên cạnh vì ba phải đi làm xa, ở Liên Khương, ba phone về thấp thỏm hỏi ông bà ngoại:

- Vợ con sanh có tốt không bố? Baby sinh ra có khỏe không? và có phải là con… trai?

Ông ngoại ái ngại, không dám trả lời liền, ngần ngừ:

- …Ưm… nhờ Trời thương mẹ tròn con vuông!... Con bé khỏe mạnh!

Ba thốt lên một cách thất vọng:

- …Lại là con gái ư?!

Một khoảng thời gian yên lặng, rồi ba nói tiếp :

- Con nhờ ông ngoại đặt tên cháu nhé.

- …Ừ được rồi, nhưng con bé này rất kháu khỉnh, có cặp mắt tròn to, da trắng và rất nhiều tóc!

- Vâng! Ông cứ đặt tên cho cháu đi nhé, con cám ơn ông bà Ngoại giúp con nuôi vợ con và các cháu nhé; con phải làm đến hết tuần này mới về nhà được ạ.

- Được rồi, con cứ an tâm đi.

Chỉ nói thế thôi, ba cúp phone tiếp tục làm việc.

Ông Ngoại trầm ngâm suy nghĩ, biết ba đã « ngán » con gái lắm rồi, nếu mẹ cứ tiếp tục cái đà này thì chắc ba ở luôn trên Liên Khương làm việc!

Ba chị gái đầu ra đời làm ba tôi chán quá, đổi nhà về Saigon làm việc để có thể thay đổi không khí, thay đổi sinh hoạt, biết đâu….

Lần thứ tư mang bầu, mẹ tôi chẳng thèm kiêng cữ gì như ba lần trước, bà ăn uống xả láng vì cảm thấy lúc nào cũng đói, nhất là rất thích ăn kem, ăn đồ lạnh.

Ngày mẹ đau bụng, mới đến nhà thương, chưa kịp vào phòng sanh, đứa trẻ đã muốn lọt ra ngoài, họ vội vàng đẩy mẹ vào phòng ngay; ba đứng bên ngoài chờ cho mọi chuyện êm thắm một chút, định bỏ về đi làm thì nghe tiếng khóc thé của tôi vọng ra; ba đã biết đó là thằng con trai!

Ba đã mừng đến rơi nước mắt và đã chắp tay cảm ơn Trời Phật ngay tại trước phòng sanh của mẹ!

Tôi được cưng chiều đến nỗi chỉ một tiếng khóc nhỏ cũng được chị vú ẵm bồng, dỗ dành.

Mỗi buổi chiều đi làm về, ba đều vào thăm thằng cu Thơm, vì hồi bé tôi thơm mùi sữa, mùi phấn lắm nên được đặt tên ở nhà là cu Thơm, ba mua đồ chơi, hôn hít, bồng bế tôi. Tôi đem niềm may mắn đến cho gia đình, ba được thăng chức, được chính phủ cấp cho nhà rộng to, rất đẹp.

Dù ba cưng chiều tôi nhất nhà, nhưng ba chị của tôi cũng được ba chăm sóc, lo lắng cho từng người. Tôi nhớ chị lớn nhất của tôi đến tuổi có bạn trai, mỗi lần anh ấy đến, ba đều hỏi gia cảnh nhà anh ấy tưởng chừng như cảnh sát hỏi cung phạm nhân vậy, đến nỗi anh ấy không dám vào nhà nữa mà hẹn chị ở góc đường, ba nói :

- Đứa nào có can đảm đối đầu được với ba thì mới xứng đáng làm con rể của ba!

Mỗi lần tôi bị bệnh thì khỏi nói rồi, ba thức đêm lo cho tôi uống thuốc đúng giờ thay vì là mẹ, ba cẩn thận đến nỗi sợ mẹ mệt ngủ quên nên ba để đồng hồ báo thức dậy đúng giờ đó, và tự tay cho tôi uống thuốc.

Sau tôi, em trai ra đời, ba rất vui mừng và ngưng tại đây.

***

Những ngày vui hạnh phúc chưa được bao nhiêu thì miền Nam bị nhuộm đỏ, công việc dưới chính quyền cũ không còn nữa, ba phải cơ cực làm những công việc chẳng phải là chuyên môn của mình, hy sinh tất cả cho các con từ hạt cơm bo bo đến miếng thịt heo cả tháng mới mua được một lần ở hợp tác xã.

Sau đó là những lần vượt biên không thành, ba bán dần dần những đồ đạc trong nhà, ba ít nói hơn, mái tóc bất ngờ chuyển màu trắng toát chỉ qua vài đêm, ngồi yên nhìn vào khoảng trống như suy tính mọi cách làm sao cho con cái thoát thân trước, rồi ba mẹ mới là người cuối cùng.

May mắn làm sao đúng vào lúc gia đình cạn kiệt nguồn vốn để dành bao lâu nay, giấy tờ bảo lãnh của người thân bên Canada về đúng lúc, chúng tôi sửa soạn rời xa quê hương, nơi chôn nhau cắt rốn đến một xứ sở thứ hai với hai bàn tay trắng, tương lai mịt mờ, chỉ còn mỗi niềm hy vọng mong manh trong tim.

***

Ba mươi năm sống ở xứ Canada lạnh giá, 15 năm đầu ở Montreal, ba đã bỏ cả tự ái, quên đi cái chức giám đốc nha hỏa xa, xưa kia ở Saigon, một thời cai quản hơn cả mấy chục nhân viên dưới quyền, ba đã phải làm công nhân với mức lương 4$/ giờ trong hãng làm giầy da, sáng sớm dậy chờ bus lạnh lẽo ở đầu đường, làm cho đến chiều 5 :00 về nhà mệt nhoài. Với số tuổi không còn trẻ, 55, Ba cố gắng quên mình, bỏ tự ái để đi làm công việc tay chân với một mức lương tối thiểu mà không hề than trách, để cho chị em chúng tôi đừng bị dang dở việc học.

Vài ba năm sau, năm 1990 dù lớn tuổi, ba vẫn lấy thêm chứng chỉ học ban đêm, mỗi tối cả nhà chúng tôi đều yên lặng, ai nấy đều gục đầu vào quyển sách, chỉ nghe tiếng trang sách lật; ba thi vào một chức vụ hành chính về quyền con người của cấp thành phố Montreal, tỉnh Quebec nơi chúng tôi đang cư ngụ, chức vụ này có đến trên 10 người thi vào, chỉ một mình ba là người Việt tỵ nạn đến Quebec được ba năm rưỡi, còn những kia toàn là dân bản xứ, họ thi lên ngạch, làm lâu năm và có kinh nghiệm cả chục năm trong guồng máy hành chính này. Ba nói với chúng tôi:



- Cứ thử sức xem sao, không mất mát gì cả, nếu đậu thì cả nhà chúng ta sẽ được thay đổi đời sống, mâm cơm sẽ khác hơn, sẽ có xe đi và chỗ ở tốt hơn; nếu không được thì mình cũng học cho có thêm sự hiểu biết về luật pháp của Canada, không có gì mất công hết!

Chúng tôi rất cảm động vì thấy tuổi ba đã lớn, trên 55 mới bắt đầu học lại, ba không muốn cho mẹ phải đi làm, không muốn thấy chúng tôi phải bỏ học ngang để đi làm kiếm tiền, ba lúc nào cũng tự cho mình phải mang trách nhiệm này đối với gia đình.

Nhiều đêm thấy ba đọc sách mà quyển sách đã tự rơi xuống đất vì buồn ngủ và mệt quá, ban ngày đi làm từ sáng sớm, tối thức khuya đến 12 :00 đêm làm sao sức nào chịu nổi, tôi thương ba vô cùng, tự hứa với lòng sẽ ráng học ra trường kỹ sư để ba hài lòng.

Rồi một ngày, ba về nhà mang trên tay bao nhiêu giỏ xách, ba hớn hở nói như reo, lần đầu tiên tôi thấy ba vui như thế:

- Mẹ chúng nó này! Tôi đã… thắng rồi nhé, tôi được chọn vào làm văn phòng của chính  phủ rồi, thứ hai tới này tôi đi làm công sở mới!

Lúc ấy ở nhà chỉ còn hai anh em trai chúng tôi thôi, ba chị lớn đã lần lượt đi lấy chồng sau khi ba mẹ tôi sang được một năm, tôi và em trai đã chạy ra ôm lấy ba, chúc mừng:

- Ba giỏi quá! Chúng con phải noi theo gương ba!... Hôm ba đi thi có đông người phỏng vấn ba không?

- Cả một phái đoàn 6 người, mỗi người hỏi một vấn đề, người thì hỏi về luật lệ Canada, kẻ thì đưa ra những tình huống xem mình giải quyết thế nào, còn người thì hỏi về học vấn và công việc trong quá khứ của mình ra sao…rất stress lắm, mỗi thí sinh phải qua cả tiếng đồng hồ với họ đấy chứ không dễ ăn đâu!

- Chúng con rất hãnh diện về ba, ba giỏi quá, ba làm gương cho chúng con noi theo đó!

- Vậy mấy người kia thì sao hả ba? Họ trả lời không được hay sao?

- Họ không đủ kinh nghiệm sống và có người chưa làm qua chức vụ đó thì làm sao trả lời được, còn ba thì đã làm mấy năm giám đốc hỏa xa, lại đi tu nghiệp ở Mỹ, Pháp về thành ra đối với ba không là vấn đề gì to tát, chỉ có cái mình nói chuyện bằng ngôn ngữ của họ không nhanh bằng họ thôi, mình viết giỏi, nhưng nói thì chưa lưu loát lắm.

-B õ công ba học hành từ cả mấy tháng nay! Đây là món quà thật xứng đáng của ba!

- Cái gì cũng phải nỗ lực để đạt được, các con nhớ nhé, muốn gì phải đạt được bằng tất cả khả năng của mình, đừng từ bỏ, hãy theo đuổi mộng ước của mình đến cùng vì mình chỉ khổ vài năm thôi mà được hưởng cả đời.

Mẹ tôi chen vào:

- Ba nó mua nhiều thịt heo, thịt vịt quay quá, hôm nay tha hồ mà ba bố con nhậu với nhau!

***

Ba làm cho công sở cấp thành phố, tiểu bang Quebec này được 10 năm, đúng 65 ba về hưu, mọi người trong sở ai cũng quý mến ba, ba được thưởng bonus và được tiền hưu cao. Lúc ấy tôi và em trai đã tìm được một công việc khá ở Toronto về kỹ sư điện tử đã được trên sáu năm và cũng đã lập gia đình; ba mẹ muốn về gần con trai và các cháu nhỏ, nên đã từ giã Montreal, không muốn ở chung với các con, mà muốn ở riêng và thỉnh thoảng chúng tôi đến thăm.

Mẹ mất khi 70 tuổi, sự ra đi nhanh chóng của mẹ làm cuộc sống của ba bị mất thăng bằng, ba không còn thấy vui sống nữa, nhưng vẫn cố gắng giữ nụ cười khi gặp con cháu. Ba cố gắng tự mình di chuyển bằng xe đạp, bằng phương tiện giao thông công cộng như bus hay metro để đừng phiền đến ai, ba cũng tự học làm cơm mà từ trước đến nay ba chẳng bao giờ đụng đến bếp núc mà chỉ lo kiếm tiền cho gia đình mà thôi, ba ăn uống qua loa… Vì thế nên ba ngày càng gầy đi, mỗi lần gặp chúng tôi ba đều cố vui để chúng tôi đừng lo lắng, đừng mất công làm cơm đem đến cho ba:

- Ba khỏe mạnh lắm, không bệnh hoạn gì hết, các con cứ lo đi làm, lo cho các cháu là được rồi, đừng mất công đem gì đến cho ba, ba đặt đồ ăn ở gần đây, họ làm ngon lắm.

Đến một ngày, tôi nhận được phone của ba từ nhà thương, ba cố nói với giọng vui vẻ:

- Ba đã xin được một chỗ ở đây rất tốt, phải chờ đợi lâu lắm mới được chỗ này đó, họ làm cơm cho mình ngày ba bữa, nơi đây vừa gần chỗ các con ở, vừa gần … nhà quàn…

- Ba! Cái gì vậy? Tại sao ba lại vào nhà thương ở? Chỗ đó đâu phải…. Sao ba không bàn gì với chúng con? Cancer phổi của ba các bác sĩ nói vẫn được theo dõi ok mà? Ba có bị đau đớn không? Ba có buồn giận gì chúng con không?

- Không đâu, chính ba là người quyết định, các con không có lỗi gì ở đây cả! đời người cũng phải có cái hạn mà con, ba đã sống hết đời rồi; từ ngày mẹ con qua đời đến giờ ba sống thật bấp bênh, thấy thiếu thốn một cái gì đó, cuộc sống không còn vui, không còn chất lượng nữa… Ba muốn… đi gặp Mẹ!

Tuy nhiên, ba rất vui thấy các con đã thành công, tự lực, nuôi nấng và giáo dục các cháu rất tốt, đó là điều mà ba thấy hạnh phúc nhất. Ba thấy mình đã thực hiện được ước mơ, trách nhiệm đã xong, sống lâu quá chỉ làm phiền các con cháu mà thôi, ba chọn cách ra đi nhẹ nhàng nên mới vào nhà thương này….

Ba phone đến các chị lớn để “trăn trối”, dặn các chị phải làm gì sau khi ba ra đi, ba muốn được thiêu, tro của ba hãy để vào chùa, chỗ bên cạnh mẹ mà ba mẹ đã chọn mua, ba để lại gia tài cho đứa nào cái gì…

Chúng tôi chỉ yên lặng nghe quyết định của ba mà trái tim tan nát, nước mắt rơi không ngừng, không nói được điều gì khi thấy ba đã suy nghĩ, đã sắp xếp cho chuyến đi xa của ba được toàn vẹn. Các chị tôi lúc nào cũng túc trực bên cạnh nhà thương; khi vào thăm ba, thấy ba còn mạnh khỏe, vẫn tự mình làm vệ sinh cá nhân, ăn uống ngon miệng đồ ăn của nhà thương, nơi đây là chỗ để cho những người bệnh già ở, không bị bệnh nặng lắm, có những người ở đây đến hai năm vẫn chưa ra đi.

Chúng tôi nhắc lại những kỷ niệm xưa với ba, nói những chuyện vui để ba có thể quên đi cái thực trạng bệnh hoạn, ba chỉ cười mỉm và lúc nào cũng nhắc nhở chúng tôi:

- Nhớ trông nom các em, các cháu cho tốt nhé, ba ra đi sẽ phò hộ cho các con!

- Ba ơi, ba hãy đi đầu thai, hãy làm việc của ba, đừng vì chúng con nữa ba nhé, ba đã cho chúng con một đời này là được rồi ạ!

Đến tháng thứ hai ở nhà thương, lúc 3:00 sáng, tôi nhận được cái phone định mệnh reng lên giữa đêm, họ nói ba đã từ chối ăn uống, cũng như uống thuốc từ hai hôm nay, để được thảnh thơi ra đi… Ba tôi hưởng thọ 86 tuổi!

Cha đi, bóng xế bên thềm,
Lá rơi theo gió, nỗi niềm rụng theo.
Lặng thầm lệ ướt khăn treo,
Con ngồi thổn thức giữa chiều buốt tim.

Một đời cha gánh nổi chìm,
Cho con nắng ấm, cho tim yên bình.
Giờ đây trời đất lặng thinh,
Cha ơi... tiếng gọi chỉ mình con nghe.


Sỏi Ngọc

Montreal June’25

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
Chiếc đồng hồ treo trên vách gõ nhịp nhàng hai tiếng thảnh thót giữa đêm khuya tĩnh mịch. Từ đàng xa, vài con chó trong xóm vắng gầm gừ sủa ma nghe thấy lành lạnh người. Tiếng gió đưa xào xạc mấy hàng dừa bụi chuối bên hè cộng thêm giọng ểnh ương oàng oạc tạo thành khúc nhạc êm ái đặc biệt hắt hiu của đồng quê miền Nam. Mùi hương hoa bưởi hoa cau cũng nương theo làn gió đêm len lén vào nhà nghe thoang thoảng nhẹ nhàng. Cho tới giờ này mà Phi vẫn chưa ngủ được, nó cứ nằm lăn qua trở lại với nỗi buồn nhức thịt nhức da, đau buốt tâm can vì sáng mai này nó phải chia tay với con Hồng Thắm, người chị láng giềng lớn hơn nó hai tuổi và cũng là người mà nó thân thiết nhất xóm, còn hơn cả con Mai em gái của nó nữa . Mà nói nào ngay thì Hồng Thắm có đi xa xôi cách trở gì cho cam, chị chỉ qua Mỹ Tho học mà từ nhà tụi nó ở ngay chợ Ngã Tư An Khánh-Bình Đại (Bến Tre) qua có cái Bắc Rạch Miễu là đã tới nơi rồi.
An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.
Thắp nhang tụng thời kinh công phu buổi sáng, tôi mỉm cười đón tia nắng mai đầu Xuân đang lạnh tràn lên chiếc áo tràng và thành tâm cầu nguyện “âm siêu dương thái, dịch bệnh tiêu trừ” cho đệ tử và chúng sanh không phân biệt. Tiếng chuông hồi hướng đưa tôi vào ngôi chùa Tự Tại để được sống thêm một giờ, một ngày hay bao lâu nữa cũng được trong thanh tịnh và an vui.
Để tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum . Bà Elizabeth Becker trong quyển sách "Khi chiến tranh đã chấm dứt , 1986" dẫn chứng lời của vị Đặc Ủy Tối cao Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc: 250.000 thuyền nhân chết trên biển cả; 929.600 người được tỵ nạn. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng.
Biển mùa hạ xanh biếc, màu xanh tưởng chừng như thông suốt từ đáy biển lên tận bầu trời, cái màu xanh mát mắt lạ thường, chỉ nhìn thôi đủ thấy khoan khoái, bao nhiêu bực dọc và phiền não như tan trong làn gió. Hàng ngàn người đang vùng vẫy trong làn nước xanh mát ấy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.