Hôm nay,  

Bạn

07/09/202511:38:00(Xem: 3585)
bạn 1
Bạn trung học chụp chung với cô chủ nhiệm nhân dịp kỷ niệm 25 năm ra trường

Chẳng hiểu vì sao, vào lúc bắt đầu cảm thấy già, tôi lại lẩm cẩm đi tìm lại định nghĩa về chữ “bạn”. Bạn tôi là ai? Tại sao tôi lại kết bạn với họ? Lúc trẻ đã từng có một thời suýt bị vợ bỏ vì “lo cho bạn nhiều hơn cho gia đình”; nhưng khi đến độ tuổi “lục thập nhi nhĩ thuận” tôi lại đâm ra làm biếng gặp hầu hết những nhóm bạn từng một thời thân thiết. Tại già đâm ra khó tính không thấy ai hạp? Hay tại già thích yên lặng, không muốn nói chuyện, chỉ muốn làm bạn với cây cỏ? Tôi lần mò quay lại với quá khứ, nhớ lại những người bạn xưa, để hy vọng tìm ra câu trả lời cho cảm giác lạc lõng với người thân quen trong hiện tại.

 

Người xưa có câu nói đại khái là muốn hiểu rõ một người chỉ cần nhìn xem bạn của người đó là ai, đủ để thấy bạn bè ảnh hưởng đến một đời người như thế nào. Bạn như bóng với hình, cùng ta đi qua những chặng đường đời. Bóng không phải lúc nào cũng giống hình, nhưng là sự biểu hiện của hình theo một góc nhìn nào đó. Quan niệm về bạn bè là của riêng từng người, nhưng cũng có một số điểm chung. Trong tiếng Việt, "bằng hữu" có nguồn gốc từ Hán Việt; trong đó "bằng" (朋) có nghĩa là bạn bè, và "hữu" (友) cũng có nghĩa là bạn bè. Chữ Bằng do hai chữ nguyệt ghép lại, chắc có ý nghĩa là hai người bạn thân giống như hai vầng trăng sáng. Trong tự điển Wikipedia, bạn là người quen biết, có quan hệ gần gũi, coi nhau ngang hàng, hợp tính, hợp ý hoặc cùng cảnh ngộ, cùng chí hướng, cùng hoạt động…

 

Như vậy, hiểu theo nghĩa đơn giản nhất, bạn là người có chung với mình một điều gì. Từ lúc nhỏ, khi bắt đầu có ý thức về bản thân, người ta bắt đầu có bạn.

 

Đầu tiên là bạn hàng xóm, những người sống chung trong một con hẻm, một khu phố, một con đường. Tôi có những người bạn hàng xóm đúng nghĩa là “bạn tắm mưa” mỗi khi mùa hè Sài Gòn trút những cơn mưa lớn làm ngập con hẻm nghèo. Bạn hàng xóm của tôi khá gắn bó vì phải bảo vệ lẫn nhau. Nhà tôi ở gần cuối hẻm, có ba gia đình trí thức ở sát cạnh nhau, chung quanh là những gia đình lao động, cuối hẻm còn có dân du đãng thứ thiệt! Đám con nít ít học hay bắt nạt những thằng con nhà gia giáo. Mấy đứa chúng tôi kết bạn chơi bắn bi, đánh bông vụ, tạt lon… đồng thời hỗ trợ nhau mỗi khi đám hàng xóm bụi đời đến kiếm chuyện.

 

Những người bạn không ở gần nhà đầu tiên là bạn tiểu học, là những người có chung một mái trường, thầy cô giáo. Ở độ tuổi từ 6 đến 11, cái tôi thường chưa hình thành rõ rệt, cho nên tình bạn như tờ giấy trắng, theo cái kiểu mà nhà thơ Phạm Thiên Thư mô tả là “… như đi trên cát, bước nhẹ mà sâu, và cũng nhòa mau…” Tình cảm học trò tiểu học hồn nhiên, có phần ủy mị thái quá qua những trang lưu bút mỗi khi hè về; sau này lớn lên nghĩ lại xa nhau có ba tháng hè mà làm gì nhớ nhung đến thế! Tôi nhớ mình bắt đầu để ý đến một cô bạn gái đầu tiên là vào năm lớp Ba. Bạn này tên Mỹ Ngọc, dễ thương lắm. Vậy mà sang đến năm lớp Bốn là lại để ý đến một bạn gái khác rồi!  

 

Bạn trung học đối với tôi có ý nghĩa đặc biệt hơn, là nhóm bạn giữ liên lạc với nhau lâu nhất. Trung học có cấp hai (từ lớp Sáu đến lớp Chín) và cấp ba (lớp Mười đến lớp Mười Hai). Thân với nhau nhất là bạn cấp ba. Tôi có một thằng bạn học chung suốt từ lớp Sáu đến lớp Mười Hai, rồi học chung ở cả hai đại học. 15 năm cùng mài ghế ở ba mái trường, đúng là bạn học thứ thiệt!

 

Lý giải cho việc tại sao bạn trung học thân hơn bạn đại học, có người cho rằng do ở tuổi trung học chưa phải lo nghĩ nhiều về tương lai, nên học trò chỉ đi học và phá phách đúng với câu tục ngữ “nhất quỉ, nhì ma, thứ ba học trò.” Hồn nhiên nghịch ngợm, hỏi sao mà không thân thiết? Ngôi trường trung học của tôi nổi tiếng học giỏi nhất Sài Gòn vào thời đó. Nhưng sau này khi gặp nhau, chúng tôi chỉ nhắc lại ngày xưa đã nghịch phá như thế nào. Có một thằng vượt biên đi Mỹ vào năm 1981, khi trở về Việt Nam chơi sau hơn 12 năm kể rằng sang Mỹ lấy vợ, có những đêm đang ngủ mà cười sằng sặc. Vợ gọi dậy, hỏi mơ gì mà cười dữ vậy; nó trả lời nhớ lại hồi xưa đám C3 phá vui quá!

 

Những trò phá phách của C3 thì quả là độc đáo thật, nếu ghi chép lại đầy đủ có thể thành một câu truyện vui ngắn về tuổi học trò. Đó là những trò “giải phẫu”, “đi máy bay”, “đi phi thuyền”, “trùm bao”… Cô giáo chủ nhiệm khi biết được bảo là phá gì mà ngu và nguy hiểm dữ vậy! Nhưng cũng có lần, kiểu nghịch lại mang tính “kỹ thuật cao”. Một thằng có tiếng là dốt văn, một hôm giơ tay tình nguyện lên trả bài, và xin đọc thuộc lòng bài thơ cách mạng dài và khó nhớ nhất. Thật ra là mọi chuyện đã được chuẩn bị từ trước. Bài thơ được đọc thâu sẵn trong băng cassette. Bạn lên trả bài luồn dây tai nghe qua áo xuống ống quần, để đầu cắm lòi xuống bàn chân. Khi đứng tại bàn thầy giáo, bạn hất đầu dây bung ra xuống đất. Một bạn ngồi bàn đầu, chui xuống gầm bàn nối dây vào máy cassette walkman rồi bấm nút. Bạn trả bài đọc theo trơn tru, đọc chưa đến nửa bài là thầy đã kêu ngừng và cho 8 điểm. Bạn ngồi bàn đầu tắt cassette, gỡ đầu dây; bạn kia trở về chỗ an toàn, dưới tiếng vỗ tay hoan hô của cả lớp. “Mission impossible” đã hoàn tất!

 

Một đặc điểm nữa là hầu như cả lớp tôi đều đồng lòng trong chuyện phá phách. Những nạn nhân không giận những đứa bầy trò, mà chỉ mong biến thằng khác thành nạn nhân! Những bạn học giỏi, đàng hoàng không tham gia phá trực tiếp, nhưng quan sát với sự thích thú và đồng ý ngầm. Sau này, bạn lớp trưởng “học giỏi” là người nhớ và kể lại những chuyện nghịch phá của những bạn “phá giỏi” chính xác nhất. Có lẽ vì vậy mà lớp có sự hòa đồng, thân thiết với nhau.

 

Tình bạn không mất đi sau khi chúng tôi ra trường. Sau này khi ra đời, những thằng bạn trung học vẫn tìm đến nhau. Có một thằng thành đạt sớm, làm giám đốc công ty xây dựng, kéo tôi về làm chung để có công việc ổn định, để còn lấy vợ. Quan hệ xếp và nhân viên cũng không qua được tình bạn thời niên thiếu, vẫn mày tao chi tớ như thuở nào. Trong một lần họp bạn cựu học sinh toàn trường sau 25 năm, một bạn ở lớp khác nhận xét là “C3 tui bây không phân biệt ‘khủng long ăn thịt’ và ‘khủng long ăn cỏ’, nên đoàn kết và thân với nhau lâu dài…”

 

Lên đại học, bạn bè bắt đầu phải định hướng cho tương lai, nghĩ đến sự nghiệp, lập gia đình, cho nên không còn hồn nhiên như thời trung học. Bạn đại học chia sẻ những giấc mơ tương lai, cùng nhau từng bước đi vào đời. Tôi có hai thằng bạn thân ở đại học, dắt bạn đến chơi chung với một gia đình thân hữu của gia đình tôi. Kết quả là cả hai thằng đều trở thành rể của gia đình đó. Ăn được hai cái đầu heo là điều đáng nhớ nhất của tôi đối với những người bạn đại học.

 

Thời nào cũng có bạn, dù giàu sang hay nghèo khó; nhiều người cho rằng bạn thuở hàn vi thường có tình cảm sâu đậm với nhau hơn. Những người bạn có cùng một lý tưởng sống sẽ tự tìm đến nhau để gắn kết. Nhóm bạn Hội Ca Cầm của tôi hình thành từ cuối thập niên 1970s vào thời điểm Miền Nam đang ở giai đoạn khốn khó nhất: đói, gia đình ly tán, những giá trị văn minh nhân bản bị đảo ngược. Chúng tôi thuộc đủ mọi thành phần xã hội, tìm đến nhau vì có chung một hướng đi trong cuộc sống: chịu đói vật chất nhưng không để đói về tinh thần. Người nghèo nhất nhóm làm nghề giao sữa để nuôi vợ con; người kiếm tiền khá nhất là rang và giao cà phê cho những quán cóc khắp Sài Gòn. Có người mới đi tù cải tạo về, có người sắp đi bảo lãnh, có người mới vào đại học. Chúng tôi tập hợp lại để ca hát nhạc vàng, thời đó bị coi là “đồi trụy phản động”. Chúng tôi dạy nhau cắm hoa, chụp ảnh, sáng tác nhạc. Chúng tôi đóng kịch, thảo luận về Phật học căn bản, Phật giáo ứng dụng. Giáng Sinh đến tập hát thánh ca; Phật Đản lên chùa hát cúng dường. Đó là khoảng thời gian tôi học hỏi được nhiều nhất, cảm thấy cuộc sống tràn đầy niềm vui, ý nghĩa. Sau này ly tán, chúng tôi vẫn không bao giờ quên đi những ngày tháng đó, “Những Ngày Xưa Truyện Đẹp”, là tên một bài hát của anh Trần Đại Lộc, người anh Hai của nhóm.

bạn 2
Bạn Việt Báo là những thiện trí thức Phật Giáo

 

Sang đến Mỹ khi đã quá tuổi “tứ thập nhi bất hoặc”, phải làm lại cuộc đời muộn màng, tôi có thêm một số người bạn mới. Đem con đi hướng đạo, tôi kết bạn với những người có cùng lý tưởng giáo dục thế hệ trẻ Việt Nam, mong chúng nên người và không quên cội nguồn. Gia nhập những nhóm Phật tử trẻ, tôi muốn góp tay đem Phật Pháp ứng dụng đến với giới trẻ, giúp các em vượt qua những áp lực tâm lý trong cuộc sống hằng ngày, có được niềm vui, giữ thăng bằng trong đời sống tinh thần. Đi làm trong Việt Báo, tôi có được những người đồng nghiệp dễ thương và cũng là bạn đạo. Những người anh lớn trong Việt Báo là những thiện trí thức Phật Giáo, giúp tôi hiểu đạo hơn, vững tin hơn vào đạo pháp. Với những pháp hữu này, đôi khi chỉ cần ngồi uống cà phê với nhau, chẳng cần nói gì về đạo mà vẫn cảm thấy bình an.Quân tử chi giao đạm nhược thủy” là vậy.  

 

Bạn là những người như vậy, cùng tôi đi qua những chặng đường vui buồn của cuộc đời. Vậy thì cớ gì vào cuối đời lại cảm thấy cô đơn, không muốn có bạn mới, mà cũng chẳng tìm đến bạn cũ?

 

Có thể là vì trong suốt thời trẻ đã dành nhiều thời gian cho bạn bè, nên cuối đời tôi muốn sống với gia đình nhiều hơn.

 

Cũng có thể cả đời hướng ngoại, khi tuổi già đến tôi muốn quay lại vào bên trong với chính mình. Các nhà khoa học gia khám phá ra nhiều điều mới mẻ về vũ trụ, nhưng vẫn còn nhiều thứ chưa biết hết bên trong lòng trái đất. Ở tuổi 60, tôi cảm thấy như chưa biết rõ mình là ai, thật sự trong cả cuộc đời mơ ước điều gì. Hiểu rõ được chính mình có lẽ là điều không có nhiều người làm được trong suốt cuộc đời.

 

Thôi thì khi tóc đã bạc màu, có lẽ cũng chưa quá trễ, tôi bắt đầu học cách làm bạn với chính mình…

 

Doãn Hưng

Ý kiến bạn đọc
09/09/202505:00:37
Khách
nhìn cô gái ... mình nghĩ ,,,không biết chết sống ra sao ... ôi một thời trai trẻ....
chúc anh khỏe và hạnh phúc
09/09/202504:58:12
Khách
Đọc bài Anh viết nghĩ rằng anh có một đời sống vui và ý nghĩa , thời bao cấp mà anh có được tình bạn như vậy là quí hiếm, đời sống của một đời người mà có những tình bạn như anh là những viên thuốc bổ vô giá , là món ăn tinh thần không thể mua được, chúc mừng anh.
người vượt biển một mình 83, năm nay 65 tuổi sống ở bắc âu đả 43 năm , nếu nghĩ lại không có người bạn như anh, nhưng có được chỉ một người vợ đã 41 năm , không quen biết ở VN nhưng vượt biển cũng tàu, cô gái trẻ nhất ghe ....
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tôi xin nhắc lại vài kỷ niệm với các bạn tại trường Quốc Gia Kỹ Sư Công Nghệ mà tôi còn nhớ được. Trường chúng ta không còn ở bên ta nữa, nhưng những kỷ niệm, những tình cảm thân thương dành cho trường và cho nhau, đã từ bao năm nay, dường như không thể phai mờ trong trái tim của mỗi chúng ta. Nhắc lại những kỷ niệm đó, không phải để nuối tiếc những gì đã qua hay đã mất, mà chính là để nuôi dưỡng những cái cần được và cần phải trân trọng giữ gìn...
Khi tôi về. Thời gian nghỉ phép quá ngắn ngủi nên tranh thủ tận lực đi đây đi đó để tận mắt thấy, tận tai nghe. Tôi thu thập khá nhiều những chi tiết, thông tin, tư liệu để mà viết; những thông tin tiêu cực có, tích cực có với trực giác khá bén của mình, tôi lựa chọn những gì tốt và thật nhất, có một điều là “Sự thật mất lòng”, sự thật khó nghe, nghịch nhĩ nên cũng dễ bị phản ứng cực đoan, nhất là với dân mít nhà mình, đừng nói là quan quyền chức sắc, ngay cả dân đen con đỏ cũng thế...
Dù xa xôi cách trở đến đâu, điều ước mơ duy nhất là mong gặp lại Chị. Tôi biết, ở một góc trời nào đó, Chị cũng thường nhớ và ao ước như tôi. Đời sống, chợt có những ra đi biền biệt không ngờ, như một tiếng hát vút bay, rồi mất tăm trong gió...
Hồi đó, sau thế giới chiến tranh, vừa hồi cư về Huế, gia đình tôi sống chật vật trên đồng lương giáo viên ít ỏi của Mẹ. Không phải dễ để nuôi tám miệng ăn: năm người lớn, ba trẻ con. Qua giao thiệp, quen biết Mẹ và hai Dì được người ta nhờ cậy đan áo len và công việc ấy đã đem thêm chút đỉnh tiền cho gia đình. Trong hoàn cảnh sau chiến tranh, áo len rất quý. Người ta đã mất đi những chiếc áo len tốt khi chạy về làng tránh bom đạn. Nay ai cũng cần áo len để qua mùa đông vì mùa đông của Huế rất lạnh, cái lạnh ẩm, buốt vào tận xương. Mưa dầm dã, ngày này qua tháng nọ. Qua Xuân mới có tí nắng ấm...
Không có nhân vật chính diện nào trong tác phẩm tiểu thuyết này của Pamuk, mà là một tập hợp những nhân vật và đồ vật – một cái thây ma mới bị giết oan uổng, một đồng tiền, ác quỷ Satan, màu đỏ, hai chức sắc Hồi giáo, v.v… – mỗi “thứ” như thế chiếm phần tự sự mỗi chương sách. Bối cảnh lịch sử là Đế quốc Ottoman thế kỷ XVI, và nền tảng triết học Hồi giáo dĩ nhiên là trọng điểm của cuốn tiểu thuyết, nhưng cũng có những phân đoạn thấm đẫm tính kỳ bí và trữ tình. Đọc tác phẩm, độc giả người Việt có thể nhận ra một điểm tương đồng giữa Hồi giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam là, sau khi chết, linh hồn con người vẫn tồn tại trên thế gian và có thể nghe ngóng những gì người sống nói.
Michelle Obama mang đến cho độc giả một loạt câu chuyện mới mẻ và những suy ngẫm sâu sắc về sự thay đổi, thách thức, sức mạnh, bao gồm cả niềm tin của bà: khi thắp sáng cho người khác. Chúng ta có thể khai sáng sự phong phú và tiềm năng của thế giới xung quanh, khám phá những sự thật sâu sắc hơn và những con đường mới cho sự tiến bộ. Rút ra từ kinh nghiệm của mình với tư cách là người mẹ, con gái, người phối ngẫu, người bạn và Đệ nhất phu nhân, bà ta chia xẻ những thói quen và nguyên tắc mà bà đã phát triển để thích nghi thành công với sự thay đổi và vượt qua những trở ngại khác nhau.
Mỹ và Canada có nhiều ngày Lễ giống nhau, nào là Christmas, New Year, Halloween, Mothers Day, Fathers Day… nhưng cũng có hai ngày Lễ không trùng ngày. Đó là ngày Quốc Khánh , Canada Day hay còn gọi là Quốc Khánh vào ngày July 1st hàng năm, trong khi Independent Day của Mỹ là July 4th, cũng không cách xa là bao, chẳng lẽ Mỹ và Canada là... anh em từ kiếp trước?
Có bà nội trợ ghé lồng gà bà Cam xem không vừa ý bèn sang bên “con đó” mua làm bà Cam tức bà khách thì ít mà hận con Thịnh thì nhiều. Xưa nay bà Cam bán gà chợ An Đông nổi tiếng, khó có ai thoát khỏi tay bà một khi đã sà vào hỏi mua là phải mua xong mới đi khỏi được. Nay có những khách quen đã né mặt bà, họ đến thẳng hàng con Thịnh mua bán lẹ làng mau chóng hơn, vừa ý hơn. Rõ ràng là con Thịnh đã cướp khách hàng của bà...
Tôi bắt đầu nghe tên anh khi đọc bài viết “Khánh Trường, Sức Mạnh Của Im Lặng” của họa sĩ Đinh Cường vào tháng 1/2012 nhân dịp anh bày 30 bức tranh Thiền. Lúc đó, tôi chỉ biết anh là một họa sĩ như anh Đinh Cường đã nhận xét, “Tôi thật sự cảm phục bạn ở Sức Mạnh Của Im Lặng và tìm chốn nương tựa cho tâm hồn mình: Đức Quan Thế Âm Bồ Tát. Như Nietzsche với hình ảnh Zarathustra đã gợi lên lộ trình sâu rộng của một bậc Đại Bồ Tát giữa lòng đen tối của thế gian...
Tôi loay hoay mấy bận mà không viết được, trong lòng vẫn còn nhiều cảm xúc lẫn lộn thật khó nói nên lời. Những cảm xúc cứ cuồn cuộn làm cho tôi không biết nên bắt đầu viết như thế nào, vả lại những điều mắt thấy tai nghe, những câu chuyện không đầu không cuối đầy ắp nên không biết điều nào nên lấy cái nào lược bớt đi...
Tôi chăm chú sửa sang hồ sơ. Đổi màu các đường biểu diễn, thay đổi khổ chữ, kiểu chữ để người đọc có thể nhận thấy ngay trọng tâm của bài thuyết trình. Suốt mấy tuần nay, nhóm controller tụi tôi, chạy lui tới như những con lật đật. Trước mặt mỗi đứa, dán tờ lịch tổ tướng của tháng chín và tháng mười...
Một buổi sáng, Anders, người đàn ông da trắng, thức dậy, thấy da mình đổi sang màu nâu đậm, không thể nào phủ nhận. Chuyện này xảy đến từ từ, rồi đột nhiên, nhận thấy rõ ràng. Đầu tiên là cảm giác khi anh đưa tay lấy điện thoại, ánh nắng ban mai như đang làm điều gì kỳ lạ với màu da trên cánh tay. Sau đó, nhất thời bật ra ý nghĩ, có người nào khác đang nằm chung giường với anh, một đàn ông da đen, mặc dù đáng kinh sợ, nhưng chuyện này chắc chắn không thể xảy ra.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.