Hôm nay,  

Tú Tài

26/09/202500:00:00(Xem: 2066)

tu tai 1
Tin trên báo về việc áp dụng thi Tú Tài IBM năm 1974.

Cho tới bây giờ, thỉnh thoảng trong giấc ngủ tôi vẫn nằm mơ tới chuyện thi Tú tài và giật mình tỉnh dậy, mừng húm mà mồ hôi vẫn đổ ra. Trong lần thi Tú Tài I, tôi đã thức đêm thức hôm học đến bị yếu phổi. Chữ “Tú Tài” nặng nhọc với tôi như vậy tuy nghĩa của nó là “đẹp đẽ, có khả năng, tài giỏi”.

Ông Tú Xương có lẽ cay đắng với chữ “Tú Tài” không kém gì tôi. Ông vác lều chõng đi thi tất cả 8 lần, từ khoa Bính Tuất (1886) tới khoa Bính Ngọ (1906). Ba lần đầu ông đạp vỏ chuối, tới lần thứ tư, năm Giáp Ngọ (1894), ông mới vớ được cái Tú Tài nhưng là Tú Tài đậu vớt, chữ ngày đó gọi là “Tú Tài Thiên Thủ”. Ông chết với cái danh Tú Tài, chẳng bao giờ kiếm được cái “Cử Nhân” mặc dù vẫn cặm cụi đi thi. Khoa Quý Mão (1903), ông đồi tên thành Trần Cao Xương để xả xui nhưng chân đạp vỏ chuối vẫn cứ dính vỏ chuối. Ông nổi cáu thành thơ: “Trách mình phận hẩm lại duyên ôi! / Đỗ suốt hai trường hỏng một tôi / Tế đổi làm Cao mà chó thế / Kiện trông ra tiệp hỡi trời ôi!”. Tôi thuộc loại chữ Hán ăn đong nên khựng lại với câu thơ cuối. Nghĩa nó là chi? Hỏi ông Google ông giải thích: “"Kiện" là một danh từ chỉ đơn vị đo lường, ở đây dùng để ám chỉ một vật gì đó rất nhỏ bé, "trông ra tiệp" ý nói nhìn mãi vẫn không thấy, ám chỉ sự vô vọng, không tìm ra lối thoát”. Hỏi ông AI (Trí Tuệ Thông Minh), ổng lại nói khác: “Kiện” chỉ những người đi thi. “Trông ra tiệp” có nghĩa là trông mong, trông đợi vào một kỳ thi để “tiệp” là “tiếp” hoặc “đạt được”. Ý nói là mong được thi đỗ”. Thôi thì xin lãnh hội hết mà trong lòng vẫn phân vân

tu tai 2

Cái danh Tú Tài thời ông Tú Xương chẳng ra chi, dở dở dang dang, không được thi Hội, không được bổ làm quan, chỉ làm được giáo quèn tại quê. Muốn được bổ làm quan phải đậu Cử Nhân. Muốn có Cử Nhân phải đậu 4 kỳ thi Hương tức 4 lần Tú Tài, sau đó vào Huế dự kỳ thi Hội để có thể lấy bằng Cử Nhân hoặc Tiến Sĩ. Người chỉ đậu 2 Tú Tài gọi là Tú Kép, 3 Tú Tài gọi là Tú Mền, 4 Tú Tài được gọi là Tú Đụp. Nhà thơ Tú Xương thi cả thảy 8 lần nhưng không đậu đủ 4 phùa nên về…làm thơ!

Việc thi cử ở nước ta khởi đầu vào năm 1072, thời nhà Lý nhằm chọn người tài ra giúp nước. Trước đó, việc tuyển chọn người ra làm quan chỉ là tùy tiện, không có phép tắc chi. Trong “Lịch Triều Hiến Chương Loại Chí” của Phan Huy Chú, chương Khoa Mục Chí, có ghi: “Con đường tìm người tài giỏi, trước hết là khoa mục, phàm muốn thu hút người tài năng, thì người làm vua một nước không thể nào không có thi cử”. Thời kỳ manh nha của thi cử tại Việt Nam, tỷ lệ thi đỗ quá thấp, việc học lại quá từ chương, khiến có nhiều sĩ tử lận đận cả đời với thi cử. Ông Đoàn Tử Quang bắt đầu dự thi từ năm 20 tuổi, thi tới 21 lần, mãi tới tuổi 83 mới công thành danh toại. Ngặt nỗi mỗi ba năm mới mở một kỳ thi nên cơ hội không nhiều. Ông nội của Ngô Tất Tố đi thi 7 lần, bố Ngô Tất Tố khăn gói dự thi 6 lần. Ông Ngô Tất Tố hên hơn, chỉ phải thi có 2 lần. So với tiền nhân, nỗi buồn thi cử của ông Tú Xương nào có thấm chi!

Chữ “Tú Tài” được vua Minh Mạng ban ra vào năm 1828. Trước đó người đậu kỳ thi Hương được gọi là “Sinh Đồ”. Tới thời Pháp thuộc, bằng tốt nghiệp trung học Pháp được gọi là “Baccalaureat”, mượn từ chữ La Tinh thời Trung Cổ “Baccalaureus” có nghĩa là “Thanh niên quý tộc muốn trở thành hiệp sĩ”. Niên khóa 1926-1927, nhà cầm quyền mới lần đầu tiên tổ chức kỳ thi “Bacalaureat de l’Enseignement Secondaire Local”, người ta dùng ngay chữ “Tú Tài” thành “Tú Tài Bổn Quốc” tuy hai chữ “Baccalaureat” và “Tú Tài” chẳng ăn nhậu chi với nhau. Baccalaureat tại Pháp thi hai kỳ: Bacalaureat I và II trong khi Tú Tài Bổn Quốc thoạt đầu chỉ có một kỳ duy nhất. Tuy chỉ có một kỳ nhưng thí sinh vất vả hơn nhiều vì phải học nhiều môn mà Tú Tài Tây không có như: văn chương Pháp và Việt, Triết Đông và Cận Đông, triết Tây, toán, khoa học, chữ Nho, sử địa tây lẫn ta. Thí sinh học ná thở. Thi cực khổ như vậy nhưng không phải tự nhiên mà thực dân tạo ra kỳ thi Tú Tài Bổn Quốc. Các cụ thời đó phải tranh đấu mới có chuyện thi bằng này. Cụ Bùi Quang Chiêu với tờ La Tribune Indochinoise, cụ Nguyễn Phan Long với tờ Echo Annamite, công kích kịch liệt nhà nước áp dụng chế độ ngu dân chỉ cho dân chúng học tới trình độ Trung học Đệ Nhất Cấp chứ không cho học cao hơn nữa. Tới niên khóa 1937-1938 bằng Tú Tài Bổn Quốc bị bãi bỏ. Tú Tài Tây được tổ chức thi thay thế. Tú Tài Tây nên ngôn ngữ chính là tiếng Tây. Năm 1945 Hoàng đế Bảo Đại ra đạo dụ dùng chữ Quốc ngữ trong các kỳ thi Tú Tài nhưng phải qua tới thời Đệ Nhất Cộng Hòa tiếng Việt mới được đưa vào làm ngôn ngữ chính trong các kỳ thi Tú Tài.

Khi di cư vào Nam vào tháng 7/1954, tôi theo học lớp Đệ Tam tại trường Chu văn An và tham dự kỳ thi Tú Tài I vào mùa hè năm 1956. Tôi theo học ban Văn Chương, gọi là ban C. Tôi không thích các môn toán, lý, hóa và vạn vật nên không theo các ban A và B. Khi thi Tú Tài I hệ số của các môn chính Việt văn, Anh văn và Pháp văn có hệ số 3, các môn khác có hệ số 1 hoặc 2. Toán hay Lý Hóa nếu làm đúng rất dễ được điểm 18/20 hoặc 19/20. Nhân với hệ số 3 vì đó là các môn chính của các ban A và B. Kết quả là dễ đậu hơn ban C. Ban C các môn chính có hệ số 3 là Việt văn, Anh văn và Pháp văn khó mà được điểm 12/20 hoặc 13/20. Năm tôi thi Tú Tài I, số thí sinh trúng tuyển của ban C chỉ có 10%. Mười anh chị ứng thí chỉ có một được nêu danh. Ngày đó có lối tuyên bố kết quả thi rất đau tim. Tới giờ tuyên bố, thí sinh và phụ huynh tập họp trong sân trường hồi hộp theo dõi xướng tên người trúng tuyển trên máy phóng thanh. Khi chiếc máy phóng thanh è è kêu, mọi con tim treo lên trong hồi hộp. Con số báo danh được đọc nhảy như cóc. Có lúc nó nhảy qua cả một phòng không có ai đậu.

Được xướng tên chưa chắc đã thành Tú Tài vì còn kỳ thi vấn đáp. Thi vấn đáp tựa như ra tòa án. Trực tiếp đối diện với các phán quan mặt sắt đen xì. Theo tôi nhớ thì trong các kỳ thi vấn đáp ngày đó tôi không bao giờ gặp một nữ giáo sư. Nếu được đối diện với mặt hoa da phấn chắc sẽ dễ chịu hơn. Phần lớn các giám khảo hỏi vấn đáp đều làm theo lương tâm nghề nghiệp, cho rút thăm câu hỏi, dành 10 phút cho thí sinh sửa soạn trước khi mặt đối mặt trả lời. Nhưng cũng có những trường hợp ngoại lệ. Tôi đã kể đâu đó vài trường hợp mà chính tôi và chú em tôi gặp, nay chỉ nhắc lại qua loa. Hung thần của môn vấn đáp Pháp văn hồi đó là Giáo sư Võ văn Lúa, có vợ đầm. Gặp ông phần lớn là…lúa đời! Vậy mà tôi gặp ông. Khi tôi đang ngồi sửa soạn câu đáp, bỗng nghe thấy ông đập bàn rầm rầm quát anh bạn đang thi: “Nếu anh là con trai tôi, tôi sẽ tát cho anh một cái!”. Tôi ngồi run như cầy sấy. Tới lượt, tôi lên bảng trả lời khá trôi chảy, ông cám ơn, tôi liếc cây viết trên tay ông, thấy ông ghi số điểm 13/20. Nhưng chuyện sau đó mới vui. Một anh bạn cùng lớp không qua khỏi kỳ thi viết, chưa bao giờ vào vấn đáp, bỏ học ngang nhưng thành công trong cuộc sống với nghề phóng viên nhiếp ảnh chiến trường cho các hãng thông tấn Mỹ, sau này mời tôi đi ăn cưới anh. Cô dâu bữa đó chính là con gái thầy Lúa! Chú em tôi bị một ông Thầy dạy Pháp văn đì khi theo học ông trong lớp Đệ Nhị tại trường Chu văn An. Khi ông thấy tên chú được vào vấn đáp, ông cất công đi tìm phòng thi của chú. Khi thấy chú ngồi, ông ngang nhiên vào rỉ tai ông thầy đang hỏi vấn đáp. Và ông này đã đánh rớt. Sau này cả ông thầy đánh rớt và chú em tôi bị nhốt chung trong tù cải tạo của cộng sản. Hai người chung một đội. Khi chú em tôi được thả, tôi hỏi có nhắc lại chuyện xưa không, chú lắc đầu. Khi đó cùng chung cảnh tù tội, làm khổ thêm nhau làm chi. Hai ông này hồi đó đều là giáo sư trẻ khá nghênh ngang. Họ coi trời bằng vung bỏ quên lương tâm nhà giáo. Năm thi Tú Tài II, tôi gặp một ông giáo sư cũng cùng băng trẻ nhưng dạy Anh văn. Năm đó ông hỏi vấn đáp 13 thí sinh. Tôi trả lời câu hỏi theo những gì được học trong chương trình lớp Đệ Nhất C. Ông dè bỉu cho đó chỉ là những kiến thức căn bản, ông muốn câu trả lời sâu hơn. Chương trình học không dậy, lấy đâu kiến thức sâu hơn. Ông tặng tôi con số 3 điểm, điểm loại. Năm đó tôi rớt vấn đáp. Không chỉ tôi dẵm vỏ chuối, tất cả 13 thí sinh gặp ông đều nhận số điểm loại 3/20. Khóa thi thứ hai năm đó, ông bị cấm chấm thi. Sau này, khi Hội Cựu Học Sinh Chu Văn An tại Montreal tổ chức họp mặt, có quầy sách mà các Giáo sư và cựu học sinh là tác giả, ông có vài cuốn sách dịch và ngồi ký sách cạnh tôi. Dĩ nhiên ông không nhận ra tôi nhưng tôi sao quên được ông. Tôi cũng chẳng nhắc chuyện xưa làm chi. Cùng tha hương, vui chi mà làm buồn lòng nhau.

Các ông giáo sư trẻ ngày đó mà tôi kể trên đã ngông nghênh không kể chi tới đám học sinh chúng tôi. Không biết sau này các ông ấy có lúc nào nghĩ lại chuyện ác đức các ông làm khi thời của các ông đang thịnh. Họ đùa giỡn trên công sức học tập ngày đêm đến võ vàng của học sinh. Họ hủy hoại tương lai của học sinh khi chúng tôi phải cắm đầu học dưới đôi mắt săm soi của ông Bùi Đình Đạm. Đại Tá Bùi Đình Đạm, sau này lên tướng, là Giám Đốc Nha Động Viên. Nếu thi rớt sẽ nhận được giấy mời của ông tướng này ngay. Chưa có tấm bằng Tú Tài I trong tay sẽ được nhập trường Hạ Sĩ Quan Đồng Đế để ra Trung sĩ. Đây là một đau xót thành thơ. “Rớt Tú Tài anh đi Trung Sĩ / Em ở nhà lấy Mỹ nuôi con / Mai sau xong chuyện nước non / Khi về anh có Mỹ con anh bồng”. Trong bản nhạc “Thà Như Giọt Mưa”, Phạm Duy phổ thơ Nguyễn Tất Nhiên cũng não nùng không kém khi rớt Tú Tài: “Ta hỏng Tú Tài / Ta hụt tình yêu / Thi hỏng mất rồi / Ta đợi ngày đi / Đau lòng ta muốn khóc / Đau lòng ta muốn khóc”. Bài thơ cùng tên của Nguyễn Tất Nhiên không có đoạn bi ai này. Phạm Duy đã thêm vào khi phổ nhạc.

Đất nước đang trong tình trạng chiến tranh, chuyện tòng quân là chuyện của mọi thanh niên. Tuy nhiên nhà cầm quyền vẫn phải duy trì sự phát triển của quốc gia. Thế hệ chúng tôi ngày đó cắm đầu học không phải để trốn tránh việc mặc áo ka ki nhưng với kiến thức thu thập được, chúng tôi sẽ phục vụ hữu hiệu hơn. Những người có bằng cấp, trở thành những chuyên viên, trước sau cũng khoác áo lính, nhất là khi có lệnh tổng động viên sau trận tổng công kích của Việt cộng vào dịp Tết Mậu Thân. Sau thời gian huấn luyện ở quân trường, giáo sư và chuyên viên được biệt phái về nhiệm sở cũ để những con người văn võ toàn tài tiếp tục đem hết khả năng ra giúp nước.

tu tai 3

Cái bằng Tú Tài như nấc thang cần thiết để chúng tôi leo lên cho địa vị cá nhân cũng như cho sự cống hiến hữu hiệu hơn cho đất nước. Vậy mà cuộc tuyển lựa thật gian truân. Tỷ lệ đậu không nhiều. Tôi đã cố tìm kết quả các kỳ thi Tú Tài trong thời kỳ này nhưng tài liệu thu thập được chưa vừa ý. Theo Wikipedia thì năm 1964, tỷ lệ trúng tuyển Tú Tài I là 22%, Tú Tài II là 32%. Theo một tài liệu khác thì tỷ lệ đậu Tú Tài I chỉ vào khoảng 30% tới 35%. Tỷ lệ đậu Tú Tài II  khá hơn, khoảng từ 35% đến 45%. Điều này dễ hiểu vì trình độ học sinh lớp Đệ Nhị không đồng đều bằng trình độ học sinh lớp Đệ Nhất vì đã được gạn lọc trong kỳ thi Tú Tài I. Tỷ lệ đậu của học sinh trường công thường cao hơn học sinh trường tư vì học sinh trường công đã được gạn lọc khi thi vào lớp Đệ Thất. Tỷ lệ đậu nói trên là tính chung cả ba ban A, B và C trong mỗi kỳ thi. Nếu tính riêng thì tỷ lệ đậu của thí sinh ban C ít hơn nhiều.
Kết quả ban C của Hội đồng thi Sài Gòn năm tôi dự thi vào cuối thập niên 1950, chỉ có khoảng 50 Tú Tài trên khoảng 500 thí sinh. Tỷ lệ là 10%. Sáng hôm sau, các báo đăng kết quả. Tên thí sinh vượt qua vũ môn được in chữ hoa trang trọng trong một khung hoa văn được đặt tên là: “Bảng Hổ Đề Danh”.
Thi như vậy là thi loại bỏ chứ không phải là thi kiểm tra trình độ của học sinh. Có lẽ giới chức giáo dục cũng nhận thấy như vậy nên các kỳ thi được cải tổ dần. Niên khóa 1968 bỏ phần thi vấn đáp. Năm 1973 bỏ kỳ thi Tú Tài I. Năm 1974 thi Tú Tài được tổ chức theo lối thi trắc nghiệm IBM. Tỷ lệ thí sinh vượt vũ môn tăng hẳn.

Thời gian chúng tôi vác bút đi thi Tú Tài, ông nhạc sĩ Đỗ Kim Bảng ngày đó có bản “Mùa Thi” rất thấm thía. “Hôm nay: ngày thi / Bao nhiêu người đi / Xe! rộn rịp / Lớp! tràn người niềm vui vấn vương / Thi ơi là thi! / Sinh "mi" làm chi! / Bay, Nghẹn ngào / Bám, ồn ào / Buồn vui vì "mi" / Đây, bao bộ mặt cười ra nước mắt than câu: "Học tài thi phận" / Đây, bao tiếng cười đắc chí khoe rằng: "Phen này tao trượt thì ai đậu cho" / Hôm nay còn thi / Mai kia còn thi / Ôi! Đời đời khóc cùng cười hòa theo mùa thi”.

Hôm nay còn thi. Mai kia còn thi. Tính từ ngày tôi khổ sở lấy cho bằng được cái Tú Tài, tới nay đã ngót nghét bảy chục niên. Vậy mà tôi vẫn còn thi Tú Tài. Trong những cơn ác mộng!
                                                                                                
09/2025                                                                         
Website:
www.songthao.com
 

Ý kiến bạn đọc
27/09/202512:51:39
Khách
Qua bài viết này giúp chúng tôi là người hậu sinh hiểu biết nhiều về những kỳ thi Hội, thi Hương và thi Tú Tài thời trước. Xin chân thành cảm ơn Ông. Chữ Kiện được viết như vầy 揵 (có nghĩa lấy tay đỡ lên vác đi) trong chữ Tiệp捷 ( có nghĩa thắng lợi, được phần thắng và mau lẹ v.v..) cũng hao hao giống nhau, nếu không coi kỹ
thì dễ nhầm lẫn.
Hy vọng góp ý nhỏ bé này giúp Ông và quý độc giả có thể cảm nhận câu thơ của Ông Tú Xương qua gốc độ chữ Hán. Mong thay. Kính
Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Kính Anh Chị Lê Thanh Tôi nhận được thư anh chị cách đây mươi ngày. Tôi định viết thư trả lời anh chị hay liền, và cám ơn anh chị đã nhiệt tình đỡ đầu hai quyển sách đầu tay của tôi mà tôi tự xuất bản. Nhưng không hiểu tại sao tôi mãi chần chờ. Đêm nay, tự dưng thức giấc, đọc lại thư anh viết, lòng cảm thấy bồn chồn. Lời thư anh mộc mạc, ngắn gọn, chứa chan tình cảm và nhiều suy nghĩ. Suy nghĩ của anh, của người tuổi đã ngoài 70. Anh đã đi qua nhiều chặng đường lịch sử của đất nước.
Như mọi buổi sáng, tôi vừa dùng điểm tâm vừa xem tin tức trên Internet. Sau đó, tôi vào Inbox để xem emails của bạn hữu. Khi thấy youtube tình khúc Hai Vì Sao Lạc – do ông Trần Nắng Phụng chuyển – cũng là lúc tôi chợt nhớ trái avocado để quên nơi bếp. Tôi “bấm” vào youtube rồi rời phòng computer, đi xuống lầu, với dụng ý khi tôi trở lên thì phần nhạc dạo đầu sẽ chấm dút.
Tháng ba, dường như mùa đông chỉ mới bắt đầu sau một tháng thời tiết ấm áp. Nấc đo màu đỏ của hàn thử biểu nằm trên dương độ và có khi vượt qua khỏi con số mười. Mọi người hân hoan cho rằng Paris năm nay không có mùa đông. Nhưng những cơn mưa ướt át, những luồng gió lạnh lẽo từ một cơn bão nào đó đã ào ạt thổi về trên phố từ mấy ngày nay. Con đường trước nhà lúc nào cũng vắng hay tôi chỉ nhìn thấy nó mỗi khi không còn ai. Thói quen trước khi vào giường ngủ và thức dậy khi đêm chuẩn bị tạ từ. Đèn vàng và sương mù, những ngôi nhà, cây cành đổ bóng ngoài khung cửa là nơi của quá khứ tôi, nơi hồi tưởng, dù vui dù buồn. Nhớ lại trong đêm nay… cả trăm điều muốn khóc1, một lời hát lấy từ một bài thơ của một nhà thơ quá cố mà tôi rất thích và tôi nghĩ đâu phải riêng tôi mới có cả trăm điều muốn khóc. Của chúng ta, bao người ly hương, làm gì lại chẳng có những đêm nhớ lại với trăm điều.
Thứ hai 6 tháng 4 South Carolina tiểu bang cuối cùng của các tiểu bang nằm dọc theo phía Đông của sông Mississippi (giòng sông dài thứ nhì của Bắc Mỹ) ban hành lệnh "Shelter in place". Cùng lúc, Indiana kéo dài "lệnh cấm túc" thêm 14 ngày nữa trên toàn tiểu bang.
Bài viết này lấy cảm hứng từ tựa đề của một tác phẩm nổi tiếng trong nền văn học Việt Nam Cộng Hoà. Đó là tựa đề “Những người không chịu chết” (1972), một trong những vở kịch nổi tiếng của kịch tác gia Vũ Khắc Khoan. Lúc vở kịch ra đời, tôi hãy còn nhỏ lắm, nhưng cũng phần nào đủ trí khôn để thưởng thức vở kịch này. Tôi được đọc vở kịch trước rồi sau mới xem kịch trên truyền hình. Đã mấy mươi năm rồi nên bây giờ tôi chỉ còn nhớ lờ mờ rằng vở kịch đó nói về một nhóm tượng người mẫu, cứ đêm đêm đêm lại trở thành người, sống, ăn nói và sinh hoạt như bao con người bình thường khác, với đầy đủ tham, sân, si, hỉ, nộ, ái, ố, thất tình lục dục. Bài viết này mượn cảm hứng đó để nói về—không hẳn chỉ là những con người—mà còn là những thực thể khác, cũng không hề chịu chết, qua dòng lịch sử nghiệt ngã của nước Việt, tính từ ngày 30 tháng Tư năm 1975.
Tiếng giày cao gót lụp cụp tiếp theo sự xuất hiện của một cô gái làm Vinh ngơ ngẩn đến lặng người. Trời ơi! Sao trên đời lại có người đẹp thế này! Nàng mặc nguyên cái áo dài màu xanh da trời đồng phục của tiếp viên hàng không Air VietNam với huy hiệu rồng vàng nổi bật trên cổ áo ôm lấy một bờ ngực vun đầy và vòng eo chết người. Gương mặt trái soan với đôi má hây hây điểm trên làn da trắng mịn màng, bờ môi mộng đỏ hình trái tim, cộng thêm đôi mắt bồ câu đen long lanh với viền mi cong vút dài rậm(thiệt đúng là chí lớn trong thiên hạ không đong đầy đôi mắt mỹ nhân). Tất cả như muốn nhốt cả hồn Vinh trong ngây dại chìm đắm.
Tiếng niệm chú rì rầm trầm hùng vang rền cả đại điện, bóng các tăng sĩ trong màu áo huyết dụ lắc lư, tay lần tràng hạt trong ánh đèn bơ lung lay trông thành kính vô cùng. Toàn bộ mọi người như nhập thần vào câu chú, thân người ngồi đó mà thần thức như ở cung trời nào chứ chẳng phải trên mặt đất này. Khói trầm phảng phất bay lên, pho tượng Phật trên toà tay bắt ấn kiết tường, mắt mở to như nhìn thấu những tấn tuồng của trò đời, thông suốt những nỗi đau của chúng sanh, biết tường tận tâm can của của mỗi người.
Chiếc đồng hồ treo trên vách gõ nhịp nhàng hai tiếng thảnh thót giữa đêm khuya tĩnh mịch. Từ đàng xa, vài con chó trong xóm vắng gầm gừ sủa ma nghe thấy lành lạnh người. Tiếng gió đưa xào xạc mấy hàng dừa bụi chuối bên hè cộng thêm giọng ểnh ương oàng oạc tạo thành khúc nhạc êm ái đặc biệt hắt hiu của đồng quê miền Nam. Mùi hương hoa bưởi hoa cau cũng nương theo làn gió đêm len lén vào nhà nghe thoang thoảng nhẹ nhàng. Cho tới giờ này mà Phi vẫn chưa ngủ được, nó cứ nằm lăn qua trở lại với nỗi buồn nhức thịt nhức da, đau buốt tâm can vì sáng mai này nó phải chia tay với con Hồng Thắm, người chị láng giềng lớn hơn nó hai tuổi và cũng là người mà nó thân thiết nhất xóm, còn hơn cả con Mai em gái của nó nữa . Mà nói nào ngay thì Hồng Thắm có đi xa xôi cách trở gì cho cam, chị chỉ qua Mỹ Tho học mà từ nhà tụi nó ở ngay chợ Ngã Tư An Khánh-Bình Đại (Bến Tre) qua có cái Bắc Rạch Miễu là đã tới nơi rồi.
An cười, nhưng chợt khựng lại với ý nghĩ không biết bao giờ mới có thể cùng Mẹ đến những chỗ đông vui như vậy. Hơn hai tuần lễ thực hiện điều “ở yên trong nhà” mà thấy lâu như cả năm. Mặc dù An đã kéo hết công việc về làm tại nhà, không phải đi đến sở, An thấy vẫn còn nhiều thì giờ trống. Chính là những lúc trước đây dành cho việc chạy bộ tập thể dục, là những lúc đẩy xe cho Mẹ đi dạo để hít thở chút khí trời trong lành, là những buổi họp mặt bạn bè, đàn ca hát xướng cho vui… Nhiều lắm! Khi bình thường không ai để ý những điều đó, đến khi phải sống trong một bầu không khí mới, sẽ thấy có sự khác biệt rõ ràng.
Thắp nhang tụng thời kinh công phu buổi sáng, tôi mỉm cười đón tia nắng mai đầu Xuân đang lạnh tràn lên chiếc áo tràng và thành tâm cầu nguyện “âm siêu dương thái, dịch bệnh tiêu trừ” cho đệ tử và chúng sanh không phân biệt. Tiếng chuông hồi hướng đưa tôi vào ngôi chùa Tự Tại để được sống thêm một giờ, một ngày hay bao lâu nữa cũng được trong thanh tịnh và an vui.
Để tưởng nhớ đến các đồng bào Việt Nam đã bỏ mình trên bước đường đi tìm tự do Elizabeth Becker (When the War Was Over, 1986) cites the UN High Commissioner on Refugees: 250,000 boat people died at sea; 929,600 reached asylum . Bà Elizabeth Becker trong quyển sách "Khi chiến tranh đã chấm dứt , 1986" dẫn chứng lời của vị Đặc Ủy Tối cao Tỵ Nạn Liên Hiệp Quốc: 250.000 thuyền nhân chết trên biển cả; 929.600 người được tỵ nạn. Tâm trạng hắn lúc đó thật là phức tạp. Hắn vừa hồi hộp, vừa lo lắng, vừa bùi ngùi đứt ruột vì phải xa lìa đất mẹ, nhưng đồng thời hắn cũng cảm thấy vô cùng phấn khởi náo nức khi nghĩ đến mỗi bước đi tới sẽ là những bước đưa gia đình hắn đến gần một chân trời mới đầy tự do và hy vọng… Tất cả mọi người đều bị ếm trong khoang ghe, không được gây tiếng động. Mấy cháu bé đều bị cho uống thuốc ngủ trước đó hết. Trong khoang ghe, tất cả được chia nhau ngồi chen chúc dọc theo hai bên vách. Mọi người đều im lặng.
Biển mùa hạ xanh biếc, màu xanh tưởng chừng như thông suốt từ đáy biển lên tận bầu trời, cái màu xanh mát mắt lạ thường, chỉ nhìn thôi đủ thấy khoan khoái, bao nhiêu bực dọc và phiền não như tan trong làn gió. Hàng ngàn người đang vùng vẫy trong làn nước xanh mát ấy.


Kính chào quý vị,

Tôi là Derek Trần, dân biểu đại diện Địa Hạt 45, và thật là một vinh dự lớn lao khi được đứng nơi đây hôm nay, giữa những tiếng nói, những câu chuyện, và những tâm hồn đã góp phần tạo nên diện mạo văn học của cộng đồng người Mỹ gốc Việt trong suốt một phần tư thế kỷ qua.
Hai mươi lăm năm! Một cột mốc bạc! Một cột mốc không chỉ đánh dấu thời gian trôi qua, mà còn ghi nhận sức bền bỉ của một giấc mơ. Hôm nay, chúng ta kỷ niệm 25 năm Giải Viết Về Nước Mỹ của nhật báo Việt Báo.

Khi những người sáng lập giải thưởng này lần đầu tiên ngồi lại bàn thảo, họ đã hiểu một điều rất căn bản rằng: Kinh nghiệm tỵ nạn, hành trình nhập cư, những phức tạp, gian nan, và sự thành công mỹ mãn trong hành trình trở thành người Mỹ gốc Việt – tất cả cần được ghi lại. Một hành trình ý nghĩa không những cần nhân chứng, mà cần cả những người viết để ghi nhận và bảo tồn. Họ không chỉ tạo ra một cuộc thi; họ đã và đang xây dựng một kho lưu trữ. Họ thắp lên một ngọn hải đăng cho thế hệ sau để chuyển hóa tổn thương thành chứng tích, sự im lặng thành lời ca, và cuộc sống lưu vong thành sự hội nhập.

Trong những ngày đầu ấy, văn học Hoa Kỳ thường chưa phản ánh đầy đủ sự phong phú và đa dạng về kinh nghiệm của chúng ta. Giải thưởng Viết Về Nước Mỹ thực sự đã lấp đầy khoảng trống đó bằng sự ghi nhận và khích lệ vô số tác giả, những người đã cầm bút và cùng viết nên một thông điệp mạnh mẽ: “Chúng ta đang hiện diện nơi đây. Trải nghiệm của chúng ta là quan trọng. Và nước Mỹ của chúng ta là thế đó.”


Suốt 25 năm qua, giải thưởng này không chỉ vinh danh tài năng mà dựng nên một cộng đồng và tạo thành một truyền thống.
Những cây bút được tôn vinh hôm nay không chỉ mô tả nước Mỹ; họ định nghĩa nó. Họ mở rộng giới hạn của nước Mỹ, làm phong phú văn hóa của nước Mỹ, và khắc sâu tâm hồn của nước Mỹ. Qua đôi mắt họ, chúng ta nhìn thấy một nước Mỹ tinh tế hơn, nhân ái hơn, và sau cùng, chân thật hơn.

Xin được nhắn gửi đến các tác giả góp mặt từ bao thế hệ để chia sẻ tấm chân tình trên các bài viết, chúng tôi trân trọng cảm ơn sự can đảm của quý vị. Can đảm không chỉ là vượt qua biến cố của lịch sử; can đảm còn là việc ngồi trước trang giấy trắng, đối diện với chính mình, lục lọi ký ức đau thương sâu đậm, và gửi tặng trải nghiệm đó đến tha nhân. Quý vị là những người gìn giữ ký ức tập thể và là những người dẫn đường cho tương lai văn hóa Việt tại Hoa Kỳ.

Với Việt Báo: Xin trân trọng cảm ơn tầm nhìn, tâm huyết, và sự duy trì bền bỉ giải thưởng này suốt một phần tư thế kỷ.
Khi hướng đến 25 năm tới, chúng ta hãy tiếp tục khích lệ thế hệ kế tiếp—những blogger, thi sĩ, tiểu thuyết gia, nhà phê bình, nhà văn trẻ—để họ tìm thấy tiếng nói của chính mình và kể lại sự thật của họ, dù đó là thử thách hay niềm vui. Bởi văn chương không phải là một thứ xa xỉ; đó là sự cần thiết. Đó là cách chúng ta chữa lành, cách chúng ta ghi nhớ, và là cách chúng ta tìm thấy nơi chốn của mình một cách trọn vẹn.

Xin cảm ơn quý vị.

NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.