Thầy

24/07/202117:22:00(Xem: 3686)
tHẦY

THẦY (4)
 
Vỗ đôi cánh hạc phong trần
Đất trời khoáng đạt thanh tân lạ thường
Tấu lên khúc nhạc cúng dường
Thế Tôn cùng với mười phương Phật đà
 
Thanh âm một cõi Sa Bà
Ba ngàn thế giới cũng là tại tâm
Nước non chung một cung trầm
Máu sa lệ sót những lầm than đau
 
Dấn thân mưa gió dãi dầu
Đạp rừng lửa cháy đội đầu gian nan
Cất lời tâm huyết ruột gan
Duy trì chánh pháp phục quang ấn truyền
 
Ra tay lèo lái con thuyền
Đạo pháp dân tộc gắn liền Phật môn
Hằng tâm nhiệt huyết bảo tồn
Dịch kinh viết sách tâm hồn thăng hoa
 
Đêm trường Thị Ngạn sáng lòa
Núi đồi nảy nở một tòa sen xanh
Từ bi, trí dũng tinh anh
Tinh thần vô úy mà thành đạo sư
 
Lời lời trác tuyệt chơn như
Đạo  đời phụng sự đạị từ Phật tâm
Trải qua thế sự thăng trầm
Độc hành chẳng ngại tháng năm giữ gìn
 
Trí huệ bát nhã tâm kinh
Tượng vương bản thể mang hình sậy lau
Phước phần còn có về sau
Trùng hưng Phật đạo bền lâu với đời
 
Trượng phu đứng giữa đất trời
Tòng lâm thạnh trụ cho người dựa nương
Đức hạnh ngược gió tỏa hương
Nước non một dải vô thường thịnh- Suy


THẦY (3)

Đất lệch cơ đồ đổ ngã nghiêng

Bao nhiêu oan uổng với ưu phiền
Sinh lộ cùng đường duyên tắc biến
Muôn vạn người đi biển máu loang

Phải buổi gian nguy biết đá vàng
Tinh thần vô úy chí bền gan
Từ bi chan chứa bao dung chúng
Chịu trận hồng phong phụng pháp tràng

Áo vải hài rơm giữ pháp hành
Tấc lòng tha thiết độ nhơn sanh
Gậy trúc trường sơn dường thạch trụ
Hải Đức thiền môn đủ chí thành

Hỏa hận tràn lan họa hiểm hung
Nhân tâm ly tán thậm mông lung
Tăng tục đôi đàng đầy ách nạn
Đạo đời hai nẻo hạn nghiệp chung

Thầy chẳng ra đi vì đại chúng
Cắm trượng đương thân đấng đại hùng
Chí lớn mưu đồ cơ phục hoạt
Ngục tù hình án vẫn ung dung

Núi dựng rừng xanh bóng áo già
Độc hành ly viễn khúc trường ca
Cung đàn cao xướng ai tòng hướng
Du sĩ không nhà đường thẳm xa

Khí phách ẩn tàng thân sậy lau
Cất lời tâm huyết dậy cơn đau
Quốc độ, dân sinh cùng đạo cả
Tiếc thay pháp lữ đã phai màu

Trí huệ thậm thâm rất nhiệm mầu
Đồng đạo bao người hiểu được đâu
Long tượng tòng lâm đâu vị tướng
Chỉ vì cơ nghiệp xướng thệ sâu

Đạo pháp xương long dân tộc hưng
Lê, Lý, Trần, Lê… cũng đã từng
Thiền sư hộ quốc còn ghi chứng
Sử sách ngàn thu xưng tán danh

Đôi mắt tinh anh thấu nhiễu nhương
Giương cao đuốc tuệ giữa đêm trường
Lời tâm huyết gọi trùng quang ấn
Truyền thừa chánh pháp tận hoằng dương

Viết sách dịch kinh vẫn miệt mài
Bản hoài chí nguyện chẳng hề phai
Vô ngã dấn thân hành hoạt xử
Xứng danh trưởng tử sứ Như Lai

 

Đồng Thiện
Ất Lăng thành, 06/2021

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
đêm bước qua khu phố tạp nhạp / quày quả sau cơn mưa bất chợt / gió lạnh từng chập vi vu...
mặt trời mặt trăng chiếu sáng nhân cảnh phì nhiêu / núi đồi bầu ngực vuông tròn / phập phồng hơi thở trần gian / suối sông mãi là bạt ngàn / một đời phiêu lãng / trôi theo sương khói...
Ta loài cỏ chưa một lần bén rễ / Trên đất này ta là khói bơ vơ / Phải đêm xưống hay bình minh ló dạng / Mặt trời hồng chưa một bước đi xa...
Có ai thật sự thấy thi sĩ? | Có ai thật sự hiểu thơ? | Thơ vẽ hoa Hướng Nguyệt | tròn như trăng | cánh trong như gương | nhìn thấu thế giới nhụy như viễn vọng kính nhìn vào không gian.
Những khúc thơ ngắn của nhà văn Trần Hoàng Vy. Cảm xúc cô đọng, bất ngờ...
phân thân ̶ ̶ ̶ bạn nói phân thân / nhẹ nhàng tách rời khỏi xác / lênh đênh trên dòng chảy vô hạn / bềnh bồng trong bầu sinh quyển phi trọng lượng / như lạc vào một bức tranh chagall...
Trong thơ ta có gió / Để tháng ngày ngao du / Trong thơ ta có núi / Đứng bên bờ ưu tư...
Gerald McCarthy vào Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ năm 17 tuổi, phục vụ tại Việt Nam trong hai năm 1966-1967, trong Tiểu Đoàn 1 Công Binh Chiến Đấu Hoa Kỳ (1st Combat Engineer Battalion) tại Chu Lai và rồi tại Đà Nẵng. Sau một nhiệm kỳ trong quân ngũ, McCarthy đào ngũ, bị bắt vào một nhà tù dân sự rồi chuyển vào quân lao. Những bài thơ đầu tiên của ông gom lại ấn hành trong thi tập War Story, ghi lại các suy nghĩ với kinh nghiệm tại Việt Nam. Sau đó, ông tham gia các hoạt động phản chiến và in nhiều thi tập khác. Nhà thơ D.F. Brown sinh năm 1948 tại Springfield, Missouri. Ông phục vụ trong Lục quân Hoa Kỳ từ 1968 tới 1977, trong đó từng giữ nhiệm vụ lính cứu thương trong tiểu đoàn Bravo, 1/14th Infantry tại chiến trường Việt Nam các năm 1969–70. Năm 1984, Brown in tập thơ đầu tay, nhan đề Returning Fire, trong đó, bài thơ ngắn nhất có nhan đề ghi bằng tiếng Pháp “L’Eclatante Victoire de Khe Sanh” (Chiến Thắng Huy Hoàng tại Khe Sanh).
Mariupol | không phải Sài gòn | mà trái tim tôi nặng trĩu | có bất công không | tôi và trái tim | đã chồng bốn mươi bảy năm của nỗi đau trường kỳ lên vai Mariupol
nói lời giã biệt với một ly cà phê không đường | có cần gì mật ngọt | một ngày nào hồi tưởng | mỉm cười ta đã thử mọi hương vị của tình yêu | mối tình không đi tới đâu, dấu chấm than tất nhiên là những hớp cà phê đậm
NHẬN TIN QUA EMAIL
Vui lòng nhập địa chỉ email muốn nhận.