Thầy

14/11/202113:07:00(Xem: 2930)
binhan_phantanhai
Minh họa: Đinh Trường Chinh



THẦY (9)

 

Qua thọ nhận từ những dòng văn tự

Tâm ý thầy hiển hóa chữ nghĩa đây

Tư tưởng thầy thật bát ngát trời mây

Gom cả lại kinh sách đầy trang giấy

Đồng đạo kia có bao người trông thấy

Chẳng dễ gì mà dụng lấy được đâu

Như hư không vô cùng tận thâm sâu

Làm sao hiểu những ý nghĩa nhiệm mầu

Bậc hữu học nhất tâm cầu trí huệ

Người thế gian chẻ chia và đặt để

Lòng tự tư nên không thể hiểu ngài

Dù giống nhau cái tứ đại hình hài

Tâm bồ đề thọ dụng lại khác nhau

Nước non này lầm lỡ những cơn đau

Dựng tích trượng chấn tác để mai sau

Đời hưng thịnh và đạo mau phục hoạt

Nuôi chí lớn rộng đường mây giải thoát

Bậc du sĩ đã lên đường dứt khoát

Có sá gì để tranh đoạt lợi danh

Chép lời Phật và y giáo phụng hành

Dịch minh văn giảng giải thành kinh sách

Buông bỏ đời như viễn khách đường xa

Giữa hư không vô cùng rộng bao la

Cánh hạc trắng lụy sơn hà loang lỗ

Thương dân tình đắm chìm trong bể khổ

Từ bi tâm nên tế độ người mê

Trên đường trần vẫn mải miết đi-về

Tình pháp lữ cũng nhiều bề khác biệt

Chí phục dựng trùng hưng dòng Phật Việt

Đạo độ đời tha thiết biết bao nhiêu

Từ bình dân cho chí triết cao siêu

Một biểu tượng tăng tục đều kính ngưỡng

Người trong ngoài mong chờ và tin tưởng

Lòng nhất tâm cung thỉnh hướng về thầy

Giáo hội dân rồi sẽ có một ngày

Hàng Thích tử hội đủ đầy hòa hợp

Đạo bồ đề mở học đường trường lớp

Giáo dưỡng người đồng hướng tới thiên lương

Dạy tri kiến như thật Phật hoằng dương

Tuyên giáo lý để rộng đường giác ngộ

Qua sông mê thầy chống chèo để độ

Tinh thần thầy phương tiện hỗ trợ thêm

Chúng con là những kẻ giữa màn đêm

Cần đuốc Tuệ bậc Sĩ hiền dẫn dắt

 

 

THẦY (10)

 

Thầy ngồi đó bóng thời gian rũ xuống

Áo nâu sồng hồn muôn trượng bay lên

Đời đa đoan những điệp khúc không tên

Ngày tháng cũ cả một miền ký ức

Sóng từ bi dạt dào trong tâm thức

Trí bồ đề luôn sáng rực đường mây

An lạc trú ngay bây giờ ở đây

Đâu chờ đợi đến một ngày huyễn hoặc

Thầy ngồi đó trong tịnh yên tịch mặc

Mỉm cười xem quân loạn tặc ưu phiền

Và trò đời như con rối đảo điên

Giữ trung đạo chẳng hề thiên tả – hữu

Tình huynh đệ kể từ trào cố cựu

Nghĩa thầy trò vẫn trân trọng bảo lưu

Nước đổi ngôi thấm đẫm máu oan cừu

Người thống khổ quỷ thần ưu sầu thảm

Họa ngập tràn một giải đất phương nam

Quảng đại bi đâu đành cam tâm chịu

Chí phục hoạt thầy đương thân lo liệu

Mạng mạch pháp không thể thiếu trong đời

Những gian nan khó tưởng tợ lên trời

Cũng không thể làm cho người nhụt chí

Trong trời đất ung dung như ẩn sĩ

Bền kiên gan với thần khí kim cang

Thân lau sậy khoác một mảnh bào vàng

Chí giải thoát xuất vần thơ hào sảng

Luận đại thừa thầy thuyết giảng sư vương

Ấn trí Tuệ ở giữa cõi vô thường

Con đại Sĩ đạp trường sơn hành hoạt

Dẫu mục đích tối thượng thừa giải thoát

Đâu bỏ đời đang đau xót xiềng gông

Dù biết rằng vạn pháp vốn giai không

Nhưng chẳng thể ẩn an trong thiền viện

Hương trầm thơm mông lung xông Phật điện

Hương giới đức ngược gió tỏa muôn miền

Thánh thần thiêng tán thán hạnh vô biên

Người trong ngoài nguyện trợ duyên hộ pháp

Hàng hậu học dốc tấc lòng đền đáp

Tăng tục đều tu học thắp đèn đi

Hướng về thầy ngọn đuốc Tuệ từ bi

Ân tôn sư bậc xuất Sĩ trong đời

 

THẦY (11)

 

“ Giấc Mơ Trường Sơn” phơ phất cõi phiêu bồng

Hồn mênh mông đưa “Thuyền Ngược Bến Không”

Giữa dòng đời đầy biến động bão giông

“Văn Minh Tiểu Phẩm” tấm lòng thao thức

 

Vì giang san chí trung trinh rất mực

“Thư Gởi Tăng Sinh...” hiện thực trở trăn

Người hữu tâm chẳng biết có hay chăng

“Trú Xứ Bồ Tát” vẫn hằng năm tháng

 

“Phật Dạy Chăn Trâu” bồ đề nhãn tạng

“Phát Triển Tâm Từ” tối sáng phụng hành

Bậc du Sĩ đôi mắt Tuệ long lanh

Người là cả những tinh anh nước Việt

 

“Những Điệp Khúc Cho Dương Cầm” rất tuyệt

Ngón tài hoa tâm huyết hiến dâng đời

Thanh vô âm chẳng nệ đến ngôn lời

“Tô Đông Pha Những Phương Trời Viễn Mộng”

 

Đời mê muội giật mình, sư tử hống

Thích tử tôn cũng con cháu tiên rồng

Mấy ngàn năm non nước giống Lạc Hồng

Cùng muôn loài cộng sinh trong trời đất

 

“Ngục Trung Mị Ngữ” là lời chân thật

Đạo trong đời thấm đượm chất chơn như

Nghĩa ẩn tàng văn tự với kinh thư

Thầy giảng giải để cho người rõ lý

 

“Thanh Sắc Thi Ca” phô bày tuyệt mỹ

Dụng tinh túy người nghệ sĩ từ bi

Cái đẹp nào cũng dụ hoặc mê ly

Sống tỉnh thức đâu có chi quái ngại

 

Thị Ngạn am một “ Góc Tùng” tự tại

Hai nẻo đường gánh vác nặng trên vai

Thân gầy gò ý chí chẳng đơn sai

Phách kim cang trong hình hài lau sậy

 

Dù thời thế với vô vàn đưa đẩy

“Đối Biện Bồ Tát” chẳng thấy lung lay

“Duy Tuệ Thị Nghiệp” dạy chúng hôm nay

Theo Thế Tôn đi “ Cửa vào Tuyệt Đối”

 

Ngày sẽ lên xóa màn đêm đen tối

Thõng tay buông tinh tấn dấn thân thôi

“Dẫn Vào Tâm Kinh Bát Nhã” qua rồi

Nước vô sanh với luân hồi diệt tận

 

Đồng Thiện

Ất Lăng thành, 11/21

Gửi ý kiến của bạn
Vui lòng nhập tiếng Việt có dấu. Cách gõ tiếng Việt có dấu ==> https://youtu.be/ngEjjyOByH4
Tên của bạn
Email của bạn
)
Tập thơ Hoa Diên Vĩ Hoang Dại (The Wild Iris) ấn hành năm 1992 đã mang lại giải thưởng Pulitzer cho thi sĩ Louise Gluck. Trước khi lãnh giải Nobel văn chương năm 2020, bà đã là một thi sĩ nổi tiếng, Đoạt một số giải thưởng và tước hiệu quan trọng, như Thi sĩ Công huân quốc gia năm 2003-2004. Bạn đọc có thể tải xuống nguyên tác phẩm The Wild Iris, Hoa Diên Vĩ Hoang Dại của thi sĩ Nobel Louise Gluck như món quà đầu năm của Ngu Yên gửi tặng.
LTS - Tại Lễ Đăng Quang của Tân Tổng Thống Biden hôm qua ngày 20 tháng 1, 2021, một hình ảnh tươi sáng gây xúc động và được nhắc đến và khen ngợi, được “shared” nhiều nhất trên các trang mạng xã hội là đoạn nhà thơ trẻ Amanda Gorman, 22 tuổi, từ Los Angeles bước lên đọc bài thơ do chính mình sáng tác. Amanda là nhà thơ trẻ nhất, và là thơ thứ năm đọc thơ trong Lễ Đăng Quang Tổng Thống, nối gót 1. Robert Frost (Lễ Đăng Quang của TT John F. Kennedy, 1961), 2. Maya Angelou (Lễ Đăng Quan của TT Bill Clinton, 1993), 3. Miller Williams (Lễ Đăng Quan của TT Bill Clinton, 1997), 4. Elizabeth Alexander (Lễ Đăng Quan của TT Barack Obama, 2009). Việt Báo mời độc giả đọc “Ngọn Đồi Chúng Ta Leo”, bản Việt ngữ của nhà thơ/dịch giả Lưu Diệu Vân.
Này, ông Đào Tiềm, / lâu quá rồi, / từ lúc chia tay ở Việt Nam. / Ông sang Mỹ hồi nào? / Đêm qua, / từ chồng sách cũ chui ra, / nhìn thấy ông / tôi vô cùng hổ thẹn. / Bốn mươi tuổi ông đã đi về. / Bảy mươi tuổi tôi vẫn còn nấn ná. / Trách nhiệm / không phải của mình mà dây dưa. / Nợ nần / không phải của riêng mà ráng trả. / Ông tìm đến Suối Hoa Đào. / “Từ người già tóc bạc, / tới trẻ để trái đào, / đều hớn hở vui vẻ.” (**)
Ngồi nhìn nhau, khôn xiết biệt ly / Lắng nghe gió hát, giọng thầm thì: / Đời chớp tắt, người đi kẻ ở / Mấy mùa ly loạn, đỏ phong thi / Đỏ phong thi, khóc lá chiên đàn / Vườn xưa lót ổ, tiếng chim tràn / Hồn ai đó, sương tan ngoài ngõ / Bông dại ướt chiều, mây tím than Mây tím than, bóng mộ tím bầm Ma quen ma lạ, miểu sầu câm Ngơ ngác đau, rồi ngơ ngác hỏi Rưng rưng cát bụi, nắng thương thầm
Khi viên đạn đã bắn ra,/ đừng hy vọng lấy lại, / đừng thất vọng / nếu không trúng đích. Nếu cây súng / có trí não, có tâm tư, / lời nói là viên đạn / gây thương tích. Người là một loại súng liên thanh. / Khạc đạn từ lúc thức dậy / cho đến tận chiêm bao. / Bắn nhiều hơn suy nghĩ./ Bắn kẻ địch. / Bắn luôn đồng minh. / Khi lời đã nói ra, / đừng thất vọng / nếu không có hiệu quả, / đừng hy vọng sẽ thay đổi ý nghĩa. Những người hiếm quí tự bắn mình, / nhiều hơn bắn người khác. / Ai có đánh máu, / mới hiểu máu khóc. / Người tự bắn mình, / phải tập mọc nhiều trái tim / khắp thân thể. /
dù gì rồi cũng phải đi vào lòng đêm những bờ môi và ngón tay trò chuyện / luôn khởi đầu bằng lời nói / vinh danh tình yêu đủ mọi hình dáng / những ngôi sao rơi xuống từ bầu trời / sáng trên tay những người đàn ông và đàn bà / bốn mùa thu đông xuân hạ
Sống có dơ hay không do trong lòng. Lòng lúc nào chẳng dơ, vì vậy, lòng đâu có mặc quần áo.
Chừng này tuổi, con mới hiểu, vì sao mẹ nhẫn nhục, cha thường mỉm cười. Thuở xưa, anh em làm tay chân trìu mến nâng đỡ. Thời nay, anh em vẫn tay chân, nhưng tay cào chân, chân đá tay.
tôi thấy mẹ tôi bay từ tầng cao và bà nhẩn nha la đà không muốn chạm mặt đất. những ngày cuối năm mẹ xúng xính trong áo ấm và khăn quàng cổ. mẹ vẫy tay tôi như mọi khi và cũng như mọi khi tôi cất tiếng gọi mẹ. tôi nghĩ mẹ nghe tôi vì sau bao năm tôi vẫn ở trong quỹ đạo mẹ vẫn còn thấy mẹ lướt thướt vẫy tay từ tầng cao vào những ngày cuối năm.
Vắng vẻ công viên đìu hiu quán xá / Những con đường rưng rức gọi nhau / Chờ tiếng chân đi. Như bờ đê chực vỡ / Có tiếng nhạc về rung hoa hè phố / Ai một mình đứng hát thánh ca / Trước giáo đường im lìm khép cửa*